(Bài viết thuộc Zzz Review số 11: Về văn học Đức, ngày 31-7-2022)
Michael Kohlhaas là truyện dài nổi tiếng được xuất bản lần đầu vào năm 1808 của Heinrich von Kleist. Đen tối, hài hước, nhịp điệu nhanh gọn và phóng khoáng đầy hiện đại, kiệt tác này gây ảnh hưởng lớn lên các nhà văn hiện đại sau này.
Trong suốt cuộc đời mình, Franz Kafka chỉ xuất hiện và đọc sách hai lần trước công chúng. Một trong hai lần đó ông dành để đọc các đoạn từ Michael Kohlhaas. Kafka thú nhận rằng, “ông không thể nào nghĩ đến,” tác phẩm này, “mà không cảm động đến rơi nước mắt và hào hứng.” Thomas Mann nhận xét rằng, “Ngôn ngữ kể chuyện của Kleist là thứ gì đó hoàn toàn độc đáo.”
Vào giữa thế kỷ 16, bên bờ sông Havel có một người lái ngựa tên là Michael Kohlhaas, con trai một thầy giáo, một trong những người chính trực đồng thời lại đáng kinh sợ nhất vào thời đó. Cho đến năm ba mươi tuổi, kẻ khác thường này vốn được coi là mẫu mực đúng nghĩa của một công dân tốt. Trong ngôi làng vẫn còn mang tên ông ta, ông làm chủ một trang trại đủ chu cấp cho mình một cuộc sống sung túc; ông đã nuôi dạy những đứa con vợ ông đã sinh hạ biết kính sợ Chúa, biết siêng năng và trung thành; hàng xóm láng giềng không ai mà không được hưởng lợi từ lòng khoan dung và cách đối xử công bằng của ông; tóm lại, ông sẽ để lại tiếng thơm trên thế gian này nếu như ông không theo đuổi một trong những đức tính tốt của mình đến mức thái quá. Ý thức về lẽ công bằng đã đưa đẩy ông đến tội cướp của giết người.
Một hôm, ông rời nhà với một bầy ngựa tơ, con nào cũng được cho ăn uống no đủ và bờm lông bóng mướt, và trong lúc ông chỉ toàn nghĩ đến những việc sẽ làm với khoản tiền lãi có thể thu được sau khi bán chúng ở các chợ phiên – một phần tiền, theo cách nghĩ một địa chủ khôn ngoan, ông sẽ tái đầu tư, nhưng phần còn lại ông muốn dùng để tận hưởng cuộc sống hiện tại – thì ông đã đến sông Elbe và nhìn thấy một lâu đài uy nghi trên địa hạt Saxony, cùng với một rào chắn thu tiền quá lộ mà trước giờ ông chưa từng gặp trên tuyến đường này. Đúng ngay lúc mưa như trút nước, ông dừng lại cùng với bầy ngựa và réo gọi người thu thuế, gã này ngay sau đó liền ló bộ mặt cáu kỉnh ra ngoài cửa sổ. Người lái ngựa xin phép đi qua. “Sao lại có chuyện này vậy?” ông hỏi khi cuối cùng người thu thuế từ trong căn nhà gỗ bước ra. “Đặc quyền của vương gia,” gã ta trả lời trong lúc mở rào chắn cho người lái ngựa đi qua, “ban cho Lãnh chúa Wenzel von Tronka.”
“Tôi hiểu rồi,” Kohlhaas nói, “hoá ra là Lãnh chúa Wenzel à?” Và ông quan sát những bức tường lũy châu mai lấp loáng của toà lâu đài đang vươn cao đe doạ vùng thôn quê này. “Vậy ông lãnh chúa trước đây chết rồi sao?”
“Bị đột quỵ chết rồi,” người thu thuế vừa trả lời vừa đẩy rào chắn sang một bên.
“Ôi chà, tội nghiệp quá,” Kohlhaas nói. “Ông ta là một lão nhân đáng kính, thích dân chúng qua lại, thích trợ giúp chuyện thương mại bằng mọi cách có thể, và có một lần, ông ta tự bỏ tiền ra mở mang đoạn đường lộ ở chỗ rẽ vào làng này vì một con ngựa cái của tôi đã bị gãy chân ở đó. Tội nghiệp, giờ thì ông lão ấy mất rồi. Thế tôi phải trả bao nhiêu đây?” ông hỏi, và loay hoay moi dưới tà áo choàng đang bay phần phật ra số tiền bằng xu đồng mà người thu thuế đòi hỏi. “Ồ, anh bạn,” ông nói thêm, trong lúc người thu thuế hối thúc Nhanh lên, nhanh lên! và nguyền rủa thời tiết. “Nếu cái cây chắn kia mà được phép ở lại trong rừng thì tốt hơn cho cả hai chúng ta rồi,” và ông nộp tiền quá lộ, chuẩn bị tiếp tục hành trình. Nhưng ông vừa qua khỏi rào chắn, thì một tiếng nói khác vang lên, gọi vọng ra từ tòa tháp phía sau: “Đứng lại, tên lái ngựa kia!” và ông nhìn thấy người quản lý lâu đài đóng sập cửa sổ rồi hấp tấp đi xuống cầu thang. Gì nữa đây? Kohlhaas tự hỏi và ghì cương cho bầy ngựa dừng lại. Người quản lý lâu đài vừa cài khuy áo chẽn che kín cái bụng đồ sộ, vừa cố cúi người đi ngược gió, vừa đòi xem giấy thông hành của ông.
Giấy thông hành? Kohlhaas hỏi. Thoáng chút chán nản, ông nói rằng theo hiểu biết của mình thì ông không hề có; nhưng giá như ông được giải thích nguyên cớ sự tình thì chắc chắn là ông sẽ cố gắng hết sức để chuẩn bị sẵn giấy thông hành. Người quản lý lâu đài liếc xéo ông thật lâu và nói rằng không có giấy phép của lãnh chúa vùng này thì không một thương nhân nào được phép đưa ngựa băng qua ranh giới. Người lái ngựa quả quyết với gã kia rằng ông đã đi qua ranh giới vùng này mười bảy lần trong đời mà không cần bất kỳ giấy tờ nào như vậy; rằng ông thông thạo hết mọi quy định của chính quyền liên quan đến công việc của mình; rằng đây chắc chắn là một sự nhầm lẫn, và ông vừa yêu cầu gã kia xem xét lại vừa nài nỉ xin đừng vô cớ giữ ông lại lâu nữa vì ông còn cả một ngày đường khó nhọc phía trước. Nhưng gã quản lý lâu đài đáp rằng gã sẽ không để cho ông đi qua lần thứ mười tám, rằng đây là một sắc lệnh mới được ban hành, và ông hoặc là phải kiếm được giấy thông hành ngay lập tức hoặc là buộc phải quay về. Bắt đầu thấy khó chịu vì những chèn ép tùy tiện này, người lái ngựa sau một thoáng im lặng bèn xuống ngựa, giao lại cho một mã phu của mình rồi nói rằng ông sẽ giải quyết vấn đề với chính Lãnh chúa Tronka. Ông đi lên lâu đài, gã quản lý đi theo sau, lầm bầm hậm hực về chuyện lái buôn lươn lẹo và phải vắt tiền của chúng cho nên thân; và cả hai cùng gườm nhau bước vào phòng.
Hoá ra Lãnh chúa đang ngồi uống rượu với mấy bạn kết giao, và một tràng cười khoái trá vì một điều lý thú nào đó đã vang lên đúng ngay lúc Kohlhaas tiến tới để than phiền. Lãnh chúa hỏi ông có việc gì; thấy người lạ, đám bạn hữu của chủ nhân bèn im lặng, nhưng ông vừa bắt đầu nài xin về việc bầy ngựa thì cả đám này gần như đồng loạt kêu lên: Ngựa? Ở đâu? rồi hấp tấp đi tới cửa sổ để xem. Nhìn thấy những lưng ngựa lấp loáng, họ vội vã kéo nhau xuống sân theo gợi ý của Lãnh chúa. Mưa lúc đó đã tạnh, gã quản lý lâu đài, tay quản gia và đám quý tộc tất cả đều tụ lại và săm soi những con ngựa. Một người thích con ngựa hồng có đốm sáng trên trán, người thứ hai thích con ngựa nâu, người thứ ba vuốt ve con ngựa khoang có những mảng lông đen và vàng; ai cũng đều đồng ý rằng những con ngựa này nhanh nhẹn như nai, và khắp vùng này không có con nào tốt hơn. Kohlhaas vui vẻ đáp rằng không có con ngựa nào hơn được những người chủ sẽ cưỡi chúng và thúc giục họ mua hàng. Hết sức chú ý đến con ngựa hồng mạnh mẽ, Lãnh chúa đã hỏi ông giá bán là bao nhiêu; tay quản gia thúc giục rằng chủ nhân nên mua luôn một cặp ngựa ô trong bầy ngựa này, rằng sẽ rất hữu dụng cho chủ nhân trong việc điều hành điền trang vốn đang thiếu ngựa cưỡi. Nhưng khi người lái ngựa nói giá, đám quý tộc lại thấy quá cao, và Lãnh chúa nói rằng nếu ông ta mà nghĩ đến mức giá như vậy ắt ông ta sẽ phải đi tới Bàn Tròn và vay tiền của chính Vua Arthur.
Tuy có linh cảm chẳng lành khi thấy hai tên quản lý và quản gia cứ thì thầm với nhau và liếc nhìn cặp ngựa ô đầy ẩn ý, Kohlhaas vẫn cố hết sức để bán những con ngựa này cho xong. Ông nói với Lãnh chúa: “Thưa ngài, tôi đã mua những con ngựa ô cái này với giá hai mươi lăm đồng vàng ducat chưa đầy sáu tháng trước; cho tôi ba mươi đồng thì chúng thuộc về ngài.” Đứng bên cạnh Lãnh chúa, hai người trong nhóm quý tộc thốt lên đại ý rằng những con ngựa này chắc chắn là xứng đáng với số tiền đó; nhưng Lãnh chúa cho rằng ông ta có thể bỏ tiền ra mua con ngựa hồng chứ không mua cặp ngựa ô, và định bỏ đi. Thấy thế Kohlhaas nói rằng có lẽ hai bên có thể đi đến thỏa thuận khi ông đi ngang qua đây lần sau; ông tạm biệt Lãnh chúa rồi nắm lấy cương ngựa chuẩn bị lên đường.
Đúng lúc đó, gã quản lý lâu đài từ đằng sau đám đông bước ra và nói: “Phải nhớ là ông không được phép rời khỏi đây mà không có giấy thông hành.” Kohlhaas quay lại và hỏi Lãnh chúa có quả thực như vậy không, vì nếu như thế tức là làm hỏng hết công việc buôn bán của ông. Đang quay lưng định bỏ đi, Lãnh chúa nói với vẻ ngượng ngập: “Đúng vậy, Kohlhaas, ngươi phải mua giấy thông hành. Hãy nói chuyện với quản lý của ta rồi đi đi.” Kohlhaas quả quyết rằng ông không có ý định né tránh các luật lệ áp dụng cho việc buôn bán ngựa xuyên địa hạt; ông hứa sẽ xin giấy thông hành ở phòng chưởng khế chính phủ trên đường qua Dresden và ông xin được đi qua đây chỉ một lần này – vì ông hoàn toàn không biết trước là có yêu cầu như vậy. “Ái chà,” Lãnh chúa thốt lên, khi thời tiết bắt đầu khó chịu trở lại, và gió lùa qua đôi chân gầy guộc của ông ta, “Để cho kẻ liều mạng cầu may này đi cho rồi. Ta vào thôi.” Ông nói với đám tùy tùng rồi quay lưng đi vào.
Hướng về phía Lãnh chúa, gã quản lý nói rằng người lái ngựa kia ít ra cũng phải để lại một thứ gì đó bảo đảm là y thực sự sẽ xin được giấy phép. Lãnh chúa dừng lại ở ngưỡng cửa. Kohlhaas hỏi ông phải thế chấp bao nhiêu, bằng tiền hay đồ vật, để bảo đảm cho cặp con ngựa ô cái của mình? Tay quản gia tính toán, nói lẩm bẩm trong bộ râu, rằng người lái ngựa tốt nhất nên để lại chính cặp con ngựa ô cái đó. “Đúng rồi,” gã quản lý nói, “cách đó là tiện nhất; khi đã có giấy phép thì y có thể quay lại đây lấy chúng đi bất cứ lúc nào.”
Hoảng kinh trước một yêu cầu ngang ngược như vậy, Kohlhaas nói với Lãnh chúa, người đang siết chặt chiếc áo choàng cố giữ ấm, rằng mục đích của ông chính là đưa những con ngựa đó đến chợ; nhưng ngay lúc đó một luồng gió đã thổi một trận mưa rào và mưa đá qua ngưỡng cửa nên Lãnh chúa quát lên để kết thúc sự việc này: “Nếu hắn không chịu từ bỏ mấy con ngựa thì quẳng hắn qua hàng rào trở lại,” rồi bỏ đi. Thấy mình không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chịu thua áp lực bạo ngược này, người lái ngựa quyết định chấp nhận đòi hỏi của bên kia; ông tháo dây buộc cho cặp con ngựa ô cái và dẫn chúng đến một chuồng ngựa mà gã quản lý đưa ông tới. Ông cho một mã phu của mình ở lại với mấy con ngựa, chu cấp tiền bạc và dặn dò người này chăm sóc chúng cho đến khi ông quay về, rồi ông cùng với số ngựa còn lại trong bầy tiếp tục hành trình đến thành Leipzig nguy nga nơi ông định tham gia chợ phiên, trong lòng bán tín bán nghi rằng, xét đến việc nghề buôn bán ngựa ở Saxony vẫn còn sơ khai, liệu không biết một biện pháp hạn chế như vậy có thực sự đã được ban hành ở vùng đó hay không.
Ở Dresden ông có một ngôi nhà với chuồng ngựa đủ chứa vài con ở ngoại ô, nơi ông làm cơ sở cho các chuyến buôn bán ở các chợ phiên nhỏ khác trong vùng; đến nơi là ông đi ngay tới phòng chưởng khế chính phủ, các viên chức ở đó có mấy người quen biết đã xác nhận điều mà trực giác đã mách bảo ông: cụ thể là việc đòi giấy thông hành kia là chuyện hoang đường. Trước sự khăng khăng của Kohlhaas, các viên thư lại ấy bực tức cấp cho ông văn bản xác nhận rằng thực tế không có lý do nào để thu thuế như vậy; ông cười vui với trò chơi ác của vị Lãnh chúa gầy gò kia mặc dù ông thực sự không hiểu là nhằm mục đích gì; và mấy tuần sau, khi đã bán hết số ngựa còn lại như mong muốn, ông quay về Tronkenburg trong lòng không còn vướng bận gì ngoài sự nguy khốn chung của thế gian.
Gã quản lý không nói năng gì khi Kohlhaas đưa giấy tờ chứng minh ra, và trước câu hỏi của người lái ngựa về việc trả lại ngựa cho ông, gã trả lời rằng ông có thể đi xuống chuồng đưa chúng về. Trong lúc băng qua sân lâu đài, Kohlhaas mới biết được một chuyện bất bình rằng mã phu của mình, do hành vi xấu – như ông nghe nói – đã bị đánh đập nhừ tử và đuổi khỏi Tronkenburg ngay sau khi ông để người này ở lại. Ông hỏi tên chăn ngựa đã cho hay tin này rằng mã phu của ông đã làm gì? Và kể từ đó ai đã chăm sóc cho ngựa của ông? Tên chăn ngựa trả lời không biết và sau đó mở chuồng ngựa cho Kohlhaas, người đang hết sức lo lắng trong lòng. Ông thất vọng biết bao khi thấy rằng, thay cho hai con ngựa ô no đủ và bóng mướt của mình, trong chuồng là hai con vật gầy ốm teo tóp, xương sườn nhô ra như vành đai thùng tô-nô, bờm và đuôi do không được chăm sóc và chải chuốt đều dính bết lại; quả là một hình ảnh thảm hại. Nghe tiếng hí yếu ớt mừng chủ của chúng, Kohlhaas thất kinh hồn vía, bèn hỏi chuyện gì đã xảy ra cho những con ngựa của mình? Tên chăn ngựa đứng cạnh ông đáp rằng không có gì tai hoạ cả, hai con ngựa này cũng được cho ăn đầy đủ, nhưng vì đã đến mùa gặt và thiếu vật kéo nên chúng đã được sử dụng chút ít cho việc đồng áng. Kohlhaas đã chửi thề trước trò gian trá nhục nhã này, nhưng thấy mình bất lực không thể làm được gì bèn cố nén giận, và làm như không có chuyện gì xảy ra, ông đã quyết định cùng những con ngựa của mình rời khỏi cái ổ trộm cướp này thì gã quản lý lâu đài, nghe tiếng nói chuyện qua lại, liền trờ mặt tới và hỏi có việc gì.
“Có việc gì à?” Kohlhaas thốt lên. “Ai cho phép Lãnh chúa Tronka và người của y sử dụng những con ngựa mà tôi đã thế chấp để làm việc thu hoạch ngoài đồng?” Ông thử dùng roi quất để kích động hai con ngựa kiệt sức, và cho gã quản lý thấy rằng chúng không còn sức cựa quậy, và ông nói thêm: “Xử sự như vậy có phải là con người không?” Sau khi nhìn ông thách thức một hồi, gã quản lý mới nói: “Hay cho tên vô lại này! Lẽ ra tên khốn này phải tạ ơn Chúa rằng ngựa của hắn vẫn còn sống chứ? Kể từ khi tên chăn ngựa của mi bỏ đi thì ai lo việc chăm sóc chúng hả? Chúng được cho ăn thì phải làm lụng trả công, chẳng lẽ điều đó không công bằng sao?” Gã kết thúc bằng lời đe doạ rằng ông không được gây huyên náo, nếu không gã sẽ xua chó ra cắn và lũ chó sẽ lo liệu việc vãn hồi trật tự.
Người chăn ngựa nghe tim mình đập dồn dưới lớp áo choàng. Ông cảm thấy thôi thúc muốn quật ngã tên vô lại bụng béo kia xuống đống rác rưởi và chà đạp cái bản mặt đỏ bừng đó dưới gót giày ông. Nhưng ý thức về lẽ công bằng của ông, vốn được tinh chỉnh chính xác như cái cân tiểu ly, vẫn còn dao động trong mức cân bằng; ngoài sự phán xét của bản thân, ông chưa biết chắc liệu đối phương có tội hay không; rồi cố nuốt những lời chửi rủa, ông bước tới chỗ mấy con ngựa, và vừa lặng lẽ trầm ngâm vuốt bờm chúng, ông vừa nhẹ giọng hỏi rằng mã phu của ông vì sai phạm gì mà bị đuổi khỏi lâu đài. Gã quản lý trả lời: “Vì thằng ranh đó đã tỏ ra ngang ngược ở điền trang này! Vì nó đã cố ngăn cản việc cần phải di chuyển đến một chuồng ngựa khác và đòi cho ngựa của hai công tử đang ghé thăm Tronkenburg ngủ ngoài đường cái, chứ không phải hai con ngựa của nó!”
Kohlhaas sẵn lòng chịu mất số tiền bằng giá trị hai con ngựa này để cho mã phu của ông có mặt ở đây mà đối chất với lời nói của tên quản lý to mồm kia. Ông vẫn đứng đó, gỡ những nút rối trên bờm hai con ngựa, và ngẫm nghĩ những việc phải làm thì cảnh tượng đột ngột thay đổi, và Lãnh chúa Wenzel von Tronka với một đám quý tộc, mã phu, và chó ầm ầm đi vào sân, sau một cuộc săn thỏ vừa xong. Được hỏi cớ sự, gã quản lý ngay lập tức lên tiếng, và trong lúc một đằng là lũ chó nhìn thấy người lạ bắt đầu hung hăng sủa rống lên, và một đằng là các tay quý tộc cố hết sức bắt lũ chó im tiếng, gã ta thưa bẩm, với sự xuyên tạc trắng trợn, rằng người lái ngựa đã quấy rối vì chuyện những con ngựa của y phải làm việc chút ít. Với tiếng cười nhạo báng, gã ta nói rằng thậm chí kẻ kia còn không chịu thừa nhận hai con ngựa đó là của y. Kohlhaas cao giọng: “Phải, quả thực chúng không phải là ngựa của tôi, nếu điều đó làm hài lòng tôn ông! Đây không phải là những con ngựa trị giá ba mươi đồng vàng ducat! Tôi muốn trả lại cho tôi những con ngựa béo tốt và bóng mướt!”
Tái mặt đi trong một thoáng, Lãnh chúa xuống ngựa và tuyên bố nếu tên khốn kia không muốn nhận những con ngựa của y thì cứ để chúng lại đây. “Günther! Hans!” ông ta gọi, “đi thôi!” Rồi vừa phủi bụi trên quần áo vừa sai gia nhân mang rượu đến, ông ta bước vào lâu đài, và sau đó ông ta cùng mấy tay quý tộc đều vào hết trong nhà. Kohlhaas nói ông thà gọi cho lái buôn ngựa nghẽo giết thịt mà bán hai con này để nấu keo còn hơn là đưa chúng trở về Kohlhaasenbrück trong tình trạng như thế này. Không nói thêm gì nữa, ông để hai con ngựa ô lại chỗ cũ, phóng lên yên con ngựa màu hạt dẻ, và vừa khẳng định với bất cứ ai muốn nghe rằng mình biết cách đòi quyền lợi, ông vừa cưỡi ngựa đi.
Ông đang phi nước đại đến Dresden thì nghĩ đến người mã phu và chuyện bất bình mà đám người ở lâu đài kia đã gây ra cho y, ông cho ngựa đi chậm lại, và chưa đi được nghìn bước thì rốt cuộc ông cho ngựa quay đầu, đi về Kohlhaasenbrück để hỏi mã phu của mình cho cặn kẽ, việc bây giờ có vẻ là vừa cấp bách vừa khôn ngoan. Vốn đã quá quen với tính chất bất toàn của thế gian, ông trong lòng đã có ý sẵn sàng chấp nhận mất hai con ngựa đó như là một hậu quả ông đáng phải nhận lãnh, bất kể những lời nhục mạ mà ông đã phải chịu đựng, nếu đúng là mã phu của ông đã có sai phạm, như lời gã quản lý đã nói. Cùng lúc đó, trong khi ông cưỡi ngựa đi tiếp, thỉnh thoảng lại dừng cương, và nghe thấy nơi nơi ta thán về những điều bất công đang diễn ra hằng ngày đối với những người qua lại lãnh địa Tronkenburg, trong lòng ông cũng trỗi dậy một cảm xúc khác, cũng rõ rệt chẳng kém, vốn đã ăn sâu hơn bao giờ hết trong bản tính: cái cảm giác rằng nếu toàn bộ sự việc này là một âm mưu, mà dường như là thế thật, thì ông phải có bổn phận dốc toàn lực đòi trả món nợ bị sỉ nhục mà ông đã gánh chịu, và bảo vệ cho người dân trong tương lai.
Về đến Kohlhaasenbrück, ông ôm choàng lấy Lisbeth người vợ yêu quý, và hôn các con, chúng đã hớn hở bu quanh ông, rồi liền hỏi ngay về Herse, mã phu của mình, xem có tin tức gì về anh ta không. Lisbeth nói: “Ôi, Michael yêu quý, Herse! Thử nghĩ coi, kẻ bất hạnh này, bị đánh đập hết sức thê thảm, đã về đây hai tuần trước: Bị đánh đập dã man đến mức không thở nổi. Mọi người đỡ anh ta nằm xuống, anh ta ho ra máu đầy giường, và để trả lời cho những câu gặng hỏi của chúng tôi, anh kể lại một chuyện mà chúng tôi không ai hiểu nổi. Chuyện làm sao mà anh ta bị bỏ lại ở Tronkenburg với những con ngựa không được phép qua lại, làm sao mà anh ta buộc phải rời khỏi lâu đài vì bị ngược đãi hành hạ, và làm sao mà anh ta bị ngăn cản không được mang ngựa của mình theo.” “Vậy sao?” Kohlhaas vừa nói vừa cởi áo choàng. “Thế bây giờ anh ta đã đỡ chưa?”
“Còn ho ra máu,” vợ ông nói, “nhưng đã khá hơn một chút. Tôi đã định sai một mã phu khác đến Tronkenburg ngay lập tức để chăm lo cho mấy con ngựa chờ đến khi ông trở về. Nhưng vì Herse luôn tỏ ra là người giúp việc thật thà và trung thành hơn ai hết, tôi thấy không nên nghi ngờ lời nói của anh ta, vì đã có rất nhiều bằng chứng, hay nghĩ là anh ta có thể đã làm mất ngựa bằng cách nào khác. Nhưng anh ta van xin tôi đừng cho bất cứ ai khác bước chân vào cái ổ trộm cướp ấy, và hãy bỏ luôn mấy con ngựa đó nếu như tôi không muốn thí mạng thêm ai nữa vì chúng.”
“Anh ta còn nằm liệt giường không?” Kohlhaas miệng hỏi, tay tháo khăn choàng cổ.
“Anh ta đã đi lại được mấy ngày rồi,” vợ ông đáp. “Nhưng ông sẽ thấy,” cô nói tiếp, “rằng mọi sự đều đúng như anh ta nói, và chuyện này là một trong những trò bạo ngược mà những người ở Tronkenburg gần đây đã ngang nhiên quấy nhiễu khách vãng lai.”
“Tôi sẽ điều tra việc này,” Kohlhaas trả lời. “Gọi anh ta cho tôi, Lisbeth, nếu anh ta đã đi lại được thì đưa đến đây gặp tôi.” Dứt lời, ông ngồi xuống ghế; và người vợ, vui mừng với phong thái bình tĩnh của chồng, bèn đi tìm người mã phu đưa về.
“Đây rồi, thế thì anh đã tính làm gì ở Tronkenburg?” Kohlhaas hỏi khi Lisbeth bước vào phòng với người mã phu. “Tôi rất không hài lòng về anh.”
Nghe thế, gương mặt xanh xao của người mã phu ửng lên mấy vệt đỏ, anh ta im lặng một lúc rồi đáp: “Thưa ông, ông nói không sai. Bởi vì tôi đã lấy một sợi dây lưu huỳnh mà tôi tình cờ mang theo định châm lửa đốt cái ổ trộm cướp đã đuổi tôi đi, nhưng khi tôi nghe thấy tiếng một đứa trẻ kêu khóc bên trong thì tôi đã ném mồi lửa xuống sông và nghĩ: Cầu Chúa thiêu hủy nó bằng tia sét của Ngài, chứ tôi thì không thể!”
Kohlhaas nói, giọng sửng sốt: “Nhưng anh đã làm gì mà đáng bị đuổi khỏi Tronkenburg?” Herse trả lời: “Bọn họ đã lừa gạt tôi, thưa ông,” và lau mồ hôi trên trán, “nhưng đó là chuyện đã rồi. Tôi không muốn những con ngựa bị hủy hoại bởi công việc ngoài đồng, và nói với họ rằng hai con ngựa vẫn còn non tơ và không quen với việc kéo nặng.”
Cố giấu nỗi ngạc nhiên, Kohlhaas đáp rằng điều này hoàn toàn không đúng sự thật, đầu mùa xuân vừa qua, cả hai con ngựa đó đều đã được thắng yên cương một thời gian rồi. Ông tiếp tục: “Gần như là một vị khách của lâu đài, anh lẽ ra nên tỏ ra một đôi lần sẵn lòng cho ngựa giúp sức, nhất là khi họ nôn nóng muốn thu hoạch mùa màng thật nhanh.”
“Tôi có làm đúng như vậy, thưa ông,” Herse trả lời. “Nhìn bộ mặt nhăn nhó của bọn họ, tôi nghĩ có cho hai con ngựa phụ giúp cũng chẳng mất gì. Vào buổi sáng thứ ba, tôi đã thắng cương cho chúng, và tôi cho chúng ra đồng chở về ba xe ngũ cốc.” Kohlhaas, tim đập dồn, cúi nhìn xuống đất và nói: “Tôi không nghe họ nói gì cả về chuyện này, Herse!”
Herse quả quyết với ông sự thật là đúng như vậy. Anh ta nói: “Tôi chỉ không làm theo lời họ khi tôi từ chối không cho ngựa kéo xe vào giữa trưa, giờ cho ngựa ăn và uống nước, và khi cả tên quản lý lâu đài và tên quản gia đều bảo tôi rằng bọn họ có thể cho tôi cỏ khô miễn phí để cho ngựa ăn, và tôi có thể giữ số tiền ông đã giao cho tôi để mua cỏ cho ngựa, tôi đã trả lời rằng tôi không đời nào làm chuyện đó và bỏ đi.”
“Nhưng vì mấy chuyện cãi cọ như vậy mà anh bị đuổi khỏi Tronkenburg sao?” Kohlhaas hỏi.
“Có Chúa chứng giám,” người mã phu nói, “vì một chuyện chết tiệt khác! Đến buổi tối đó thì có ngựa của hai công tử ghé đến Tronkenburg được đưa vào chuồng, và hai con ngựa của tôi liền được dắt ra ngay. Chính tên quản lý đã dắt ngựa ra giao cho tôi, và khi tôi nhận ngựa của mình, tôi hỏi bây giờ ngựa của tôi sẽ đi đâu, hắn dẫn tôi đến một cái chuồng lợn mái nghiêng, làm bằng ván và thanh gỗ dựa vào tường lâu đài.”
“Ý anh là,” Kohlhaas đã ngắt lời người mã phu, “ý anh là cái chuồng ngựa đó tồi tệ đến mức nó giống một cái chuồng lợn phải không?”
“Thưa ông, đó là cái chuồng lợn,” Herse đáp. “Một cái chuồng lợn thật sự, có những con lợn ra vào, và thấp đến mức ở trong đó tôi không thể đứng thẳng được.”
“Có lẽ không còn chỗ nào khác,” Kohlhaas phỏng đoán, “ngựa của khách phải được ưu tiên hơn, ta có thể hiểu điều đó.”
“Quả thực là thiếu chỗ cho ngựa,” người mã phu khẽ đáp lời. “Hôm đó có tổng cộng là bảy khách quý tộc ở lại lâu đài. Nếu là ông, ông chắc sẽ đề nghị cho dồn ngựa lại chật một chút cũng được. Lúc đó tôi đã nói là tôi sẽ thử đi thuê chuồng ngựa trong làng; nhưng tên quản lý không chịu, hắn bảo nào là phải giữ những con ngựa này lại để hắn canh chừng, nào là tôi không có lý do gì để tìm cách đưa ngựa ra khỏi lâu đài.”
“Hừm!” Kohlhaas thốt lên. “Thế anh nói sao với họ?”
“Do tay quản gia nói rằng có hai vị khách chỉ ở lại một đêm và sẽ ra đi vào sáng mai, nên tôi dắt ngựa và cho chúng vào chuồng lợn. Nhưng qua ngày hôm sau, đến tối mà vẫn không thấy thay đổi gì; và đến sáng ngày thứ ba, tôi nghe nói là các vị quý tộc kia sẽ ở lại thêm vài tuần lễ.”
“Herse, tôi nghĩ là ngay khi anh thò đầu vào xem xét thì cái chuồng lợn đó thì đối với anh có vẻ không đến nỗi tệ hại lắm.”
“Phải, phải,” người mã phu đáp. “Sau khi tôi quét dọn thì chỗ đó cũng đỡ hơn. Tôi đưa cho con đầy tớ một xu để đưa bầy lợn đi nơi khác. Và trong ngày, tôi đã nghĩ ra cách để mấy con ngựa đứng thẳng được, tức là sáng ra thì tôi tháo tấm mái gỗ ra khỏi đà ngang rồi đến tối thì lại gắn vào. Thế là hai con ngựa cứ đứng thò đầu qua nóc chuồng, như hai con ngỗng, và nhìn về hướng Kohlhaasenbrück hoặc bất cứ nơi nào khác dễ chịu hơn cái chỗ đó.”
“Tôi hiểu rồi, nhưng tại sao bọn họ lại đuổi anh đi mới được chứ?” Kohlhaas hỏi.
“Xin thưa với ông,” người mã phu nói. “Đó là vì bọn họ muốn tống khứ tôi. Vì chừng nào tôi còn ở đó thì bọn họ không thể hành hạ mấy con ngựa tới chết. Trong sân lâu đài và trong khu nhà của đám gia nhân, tôi đi đâu cũng được chào đón bằng những bản mặt khó chịu; và vì tôi nghĩ rằng các người cứ việc nhăn nhó đến méo mặt đi, nên bọn họ kiếm chuyện và tống tôi đi.”
“Nhưng kiếm chuyện gì mới được chứ!” Kohlhaas kêu lên. “Bọn họ phải có lý do nào đó chứ.”
“Ồ, đúng là có,” Herse đáp, “và là lý do chính đáng nhất có thể nghĩ ra được. Vào buổi chiều ngày thứ hai ở trong chuồng lợn, tôi dắt hai con ngựa ra, con nào cũng bẩn thỉu, vừa cưỡi vừa dắt chúng xuống sông Mulde. Tôi mới đi qua cổng chính, định rẽ xuống sông, thì nghe thấy tiếng hai tên quản lý và quản gia, với tiếng chó sủa, roi quất và đám mã phu ở khu gia nhân vừa đuổi theo tôi vừa la như điên ‘Chặn tên côn đồ lại! Thằng khốn kia, đứng lại!’ Tên thu thuế quá lộ chạy ra chặn đường; và khi tôi hỏi hắn và đám phát cuồng đang đuổi theo kia là có chuyện gì thì tên quản lý lâu đài nắm lấy dây cương của tôi và hỏi: ‘Chuyện gì à? Mi mang mấy con ngựa này đi đâu?’ rồi hắn thộp cổ tôi. Tôi nói, ‘Tôi đi đâu à? Chúa ơi! Tôi đi xuống sông chứ đâu. Bộ ông tưởng là tôi. . .?’ Tên quản lý quát lên, ‘Xuống sông hả? Thằng khốn, tao sẽ cho mày bơi về Kohlhaasenbrück!’ Rồi bất ngờ, hắn và tên quản gia đang giữ chặt chân tôi giật một cái mạnh chí tử, lôi phắt tôi xuống ngựa, quẳng tôi nằm dài dưới bùn. ‘Quân giết người!’ Cứu tôi với!’ tôi la lên. ‘Cương đai, chăn mền và một đống áo quần của tôi còn để ở chuồng ngựa mà!’ Nhưng trong lúc tên quản gia dắt hai con ngựa đi, thì tên quản lý và đám mã phu đấm đá, quất roi, quất gậy vào người tôi, cho đến khi tôi nằm dở sống dở chết sau cánh cổng. Trong lúc gượng đứng dậy tôi la lên: ‘Đồ ăn cướp chó má! Tụi bay đưa ngựa của tao đi đâu?’ Tên quản lý rống lên: ‘Cút khỏi nơi này, xuỵt, Kaiser, xuỵt, Jäger, đuổi nó đi, xuỵt xuỵt, Spitz!’ Và ít nhất là cả chục con chó xông vào tôi. Tôi liền bẻ tấm ván, hay thanh gỗ gì đó tôi thực sự không nhớ, trên hàng rào, và tôi đập chết được ba con chó trong đám, nhưng cuối cùng tôi đành chịu thua vì bị chó cắn quá đau đớn, không đứng nổi: ‘Tuýt!’ một tiếng còi rít lên; đàn chó lui vào sân lâu đài, cổng đóng lại, then cài chặt, rồi tôi gục xuống bất tỉnh trên đường cái.”
Mặt biến sắc nhưng vẫn cố gượng cười, Kohlhaas nói: “Thế anh có chắc là anh không nghĩ đến việc chạy trốn đi đâu chứ, Herse?” Và trong lúc Herse đỏ mặt tía tai cúi gằm xuống, ông tiếp tục: “Thú thật đi, anh không hài lòng khi phải ở trong chuồng lợn; dù sao thì anh cũng thích chuồng ngựa ở Kohlhaasenbrück hơn.”
“Chúa ơi!” Herse kêu lên. “Yên cương, chăn mền và một mớ quần áo tôi còn để lại ở cái chuồng lợn đó. Và tôi còn không dừng lại để lấy ba đồng guinea mà tôi đã giấu trong một chiếc khăn quàng cổ lụa đỏ đằng sau máng cỏ mà? Trời đánh, thánh vật tôi đi! Nghe ông nói như vậy khiến tôi muốn châm lửa trở lại cái dây lưu huỳnh mà tôi đã vứt bỏ.” “Thôi, thôi!” người lái ngựa nói, “anh biết là tôi không nghĩ xấu cho anh mà. Đấy, tôi tin những lời anh kể chẳng khác gì tin lời Chúa. Tôi rất tiếc vì anh giúp việc cho tôi mà lại ra nông nỗi này. Về giường nằm nghỉ đi, Herse, đi đi, bảo tụi nó mang cho anh một chai rượu mà uống cho khuây khoả. Công lý sẽ đòi nợ cho anh.” Và dứt lời, ông đứng dậy, liệt kê những vật dụng mà mã phu của ông còn để lại trong chuồng lợn ở Tronkenburg, trị giá của từng món, và hỏi người mã phu rằng theo anh ta thì chi phí thuốc men ước tính tốn hết bao nhiêu; rồi ông bắt tay người giúp việc một lần nữa, cho phép anh ta cáo lui.
Sau đó, ông vừa thuật lại cho Lisbeth vợ mình biết toàn bộ đầu đuôi cớ sự, vừa nói rõ là ông nhất định phải đòi công lý bằng được trước pháp đình, và ông rất mừng khi thấy người vợ hoàn toàn ủng hộ quyết tâm của chồng. Bởi vợ ông nói rằng cũng có những lữ khách khác nữa, có lẽ ít nhẫn nhịn hơn ông, sẽ đi qua lâu đài đó; rằng chấm dứt được những chuyện bất công như thế là một việc tốt; và rằng cô sẽ thu xếp gom góp đủ chi phí cho ông kiện tụng. Kohlhaas gọi cô là người vợ hiền, chung thủy của mình, hôm đó và ngày hôm sau ông tận hưởng hạnh phúc bên vợ con, và ngay khi công việc cho phép, ông lên đường đến Dresden để trình toà sự việc của mình.
Ở Dresden, với sự giúp đỡ của một trạng sư quen biết, ông đã soạn một đơn kiện trong đó, sau khi kể lại chi tiết những tội ác mà Lãnh chúa Wenzel von Tronka đã gây ra cho ông và mã phu Herse, ông yêu cầu pháp luật phải trừng phạt tay lãnh chúa kia, trả lại hai con ngựa đúng như tình trạng ban đầu của chúng, và thanh toán thích đáng những thiệt hại mà ông và mã phu của mình đã phải gánh chịu. Sự việc này đã rõ ràng như ban ngày. Trường hợp hai con ngựa bị bắt giữ bất hợp pháp đã giải thích mọi vấn đề sau đó; và ngay cả khi toà cho rằng chúng do ngẫu nhiên mà bị đau ốm hoặc thương tích, thì việc người lái ngựa đòi hỏi phải trả lại chúng cho ông trong tình trạng khỏe mạnh như trước vẫn là điều chính đáng. Quanh Dresden, Kohlhaas thấy mình cũng không thiếu những người bạn có thể hết lòng hỗ trợ ông trong vụ kiện này; nhờ làm nghề buôn ngựa đã lâu năm nên ông quen biết rộng, và cách làm ăn trung thực mà ông theo đuổi đã được lòng không ít những người có địa vị nhất ở xứ này. Ông vui vẻ ăn uống mấy bữa với vị trạng sư quen, một người rất được kính trọng; ông gửi trước cho trạng sư một khoản tiền để xúc tiến vụ kiện; và vài tuần sau, khi nghe trạng sư bảo đảm hoàn toàn về triển vọng thành công, ông quay về Kohlhaasenbrück với Lisbeth vợ ông.
Thế nhưng nhiều tháng trôi qua, và đã gần hết năm mà ông vẫn không nghe được tin tức gì từ Saxony về tiến triển của vụ kiện, chứ đừng nói tới chuyện phán quyết của toà. Sau khi đã đệ đơn lên toà nhiều lần không xong, ông đã gửi thư riêng cho trạng sư của mình hỏi nguyên cớ của việc chậm trễ quá lâu như vậy; và biết được rằng sau một số can thiệp kín đáo từ một phe có thế lực nào đó ở Tòa án Dresden, đơn kiện của ông đã bị bác.
Trả lời cho bức thư phúc đáp đầy kinh ngạc của người lái ngựa hỏi nguyên cớ sự tình, trạng sư của ông trả lời rằng Wenzel von Tronka có hai người anh em họ, Hinz và Kunz von Tronka, một người là quan tửu chính còn người kia là quan nội thị trong triều đình của Đức Tuyển hầu. Trạng sư thúc giục ông bỏ qua vụ kiện này và chỉ tìm cách lấy lại hai con ngựa vẫn còn ở Tronkenburg mà thôi; ông ta cho Kohlhaas hay rằng Lãnh chúa Tronka, hiện đang ở kinh thành, dường như đã ra lệnh cho thuộc hạ của y trả lại ngựa cho ông; và trạng sư kết thúc bức thư bằng lời yêu cầu rằng nếu lúc này mà Kohlhaas vẫn không bằng lòng thì cũng đừng đòi hỏi ông ta, trạng sư, phải làm gì thêm về vấn đề này nữa.
Tình cờ lúc đó Kohlhaas đang ở công quốc Brandenburg, nơi quan thị trưởng Heinrich von Geusau – địa hạt của ông ta bao gồm cả làng Kohlhaasenbrück – đang bận rộn thiết lập mấy cơ sở từ thiện cho người bệnh và người nghèo, từ một ngân quỹ khá lớn đã được để lại cho thành phố. Đặc biệt, quan thị trưởng đã khổ công cho xây dựng dòng suối khoáng ở một ngôi làng trong vùng thành một khu nhà tắm có mái che cho người bệnh tật sử dụng, khả năng phục hồi sức khỏe của dòng suối này hoá ra lại không lớn như người ta tưởng. Do vị quan này lúc còn ở triều đình đã quen biết Kohlhaas qua những lần giao dịch, ông ta đã cho phép người mã phu của Kohlhaas thử tác dụng của suối khoáng này – kể từ những ngày kinh khủng ở Tronkenburg, Herse đã bị đau tức ngực không thở nổi. Ngẫu nhiên là quan thị trưởng đang chỉ huy công việc ở bên cạnh nhà tắm khoáng mà Kohlhaas đã để Herse ở lại, đúng ngay lúc người lái ngựa nhận được tin sét đánh từ Dresden, do vợ ông đã sai người mang thư của trạng sư đến. Trong lúc đang nói chuyện với một bác sĩ, quan thị trưởng nhìn thấy một giọt lệ rơi từ mắt Kohlhaas xuống lá thư mới nhận, bèn đi tới với vẻ cảm thông, và hỏi có chuyện gì không may đã xảy ra, và khi người lái ngựa, không nói một lời, trao lá thư cho ông ta đọc, thì vị quan cao quý này, vốn đã biết chuyện bất công kinh khủng mà Kohlhaas phải chịu ở Tronkenburg – một phần hậu quả chính là bệnh tình của Herse, có thể người mã phu này sẽ phải mang bệnh đến hết đời – vỗ nhẹ vào lưng Kohlhaas và nói: “Ông phải can đảm lên, tôi sẽ giúp ông trả món nợ này.”
Tối hôm đó, khi người lái ngựa vâng lệnh đến tư dinh thị trưởng, vị quan này bảo rằng Kohlhaas chỉ cần gửi một đơn thỉnh nguyện, có tường thuật ngắn gọn sự việc, cho Đức Tuyển hầu Brandenburg, kèm theo lá thư của vị trạng sư kia, và vì những chuyện bạo ngược mà ông đã phải chịu trên lãnh thổ Saxony, xin được Chúa công bảo vệ. Quan thị trưởng hứa sẽ gửi đơn thỉnh nguyện của Kohlhaas theo một bưu kiện khác đang chờ chuyển đến tận tay Đức Tuyển hầu Brandenburg, lúc đó, nếu điều kiện cho phép, Chúa công nhất định sẽ có tác động với Đức Tuyển hầu Saxony; và chỉ cần một hành động như vậy là cũng đủ để thực thi công lý, bất kể mọi chuyện ở tòa án Dresden và những âm mưu của Lãnh chúa Tronka cùng bè lũ. Mừng rỡ, Kohlhaas hết lòng cảm ơn bằng chứng mới mẻ này về thiện chí của quan thị trưởng; ông chỉ lấy làm tiếc rằng mình từ đầu đã không xúc tiến vụ kiện ở ngay Berlin chứ đừng phí công sức ở Dresden, và sau khi thảo đơn khiếu nại tại toà án thành phố theo hướng dẫn của quan thị trưởng và giao lá đơn cho ông ta, người lái ngựa quay trở lại Kohlhaasenbrück, tin tưởng hơn bao giờ hết về kết quả vụ kiện của mình.
Thế rồi chỉ vài tuần sau, ông bực tức khi nghe tin từ một pháp quan đang trên đường đến Potsdam lo công việc cho ngài thị trưởng, rằng Đức Tuyển hầu đã chuyển đơn thỉnh nguyện của ông cho một quan thượng thư là Bá tước Kallheim[1], và vị đại thần này đã không lập tức tiến hành điều tra và trừng phạt việc bạo ngược ở Tòa án Dresden, điều lẽ ra phải làm, mà lại yêu cầu chính Lãnh chúa Tronka trình báo thêm. Dừng xe ngựa trước nhà Kohlhaas, và dường như đã được lệnh truyền đạt như vậy, vị pháp quan kia đã không tìm được câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi của người lái ngựa: “Chúng ta phải làm gì bây giờ?” Ông ta chỉ nói thêm: “Ngài thị trưởng một mực khuyên ông hãy kiên nhẫn,” và có vẻ nôn nóng tiếp tục hành trình; và chỉ đến khi kết thúc cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này, Kohlhaas đã mới đoán được qua mấy lời tình cờ của vị pháp quan rằng Bá tước Kallheim có quan hệ thông gia với người nhà Tronka.
Kohlhaas không còn hứng thú với bất cứ điều gì nữa, chán việc chăn nuôi ngựa, chán cả nhà cửa ruộng vườn, và hầu như chán cả vợ con; ông đầy những linh cảm xấu trong lòng về những gì có thể xảy ra kế tiếp và chờ đợi cho đến hết tháng. Và rồi, đúng như ông đã dự đoán, Herse đã hồi phục đôi chút nhờ nước khoáng, từ Brandenburg trở về với một lá thư ngắn của quan thị trưởng kèm theo một công văn dài hơn, nội dung lá thư đại ý là ông ta rất tiếc vì đã không thể làm được gì trong chuyện này; vị quan này gửi cho Kohlhaas phán quyết mà ông ta đã nhận được từ Toà án, và thúc giục Kohlhaas nhận lại mấy con ngựa đã để lại ở Tronkenburg, rồi bỏ qua vụ kiện này.
Phán quyết viết rằng: “Chiếu theo quan điểm của Tòa án Dresden, nguyên đơn là một người luôn kiếm chuyện khiếu nại; Lãnh chúa mà nguyên đơn đã để lại những con ngựa, không hề bắt giữ những con ngựa của y. Nguyên đơn buộc phải đến lâu đài nhận ngựa mang về, hoặc ít nhất phải cho Lãnh chúa biết nên gửi chúng về đâu; nhưng y không được quấy rối Tòa án bằng những chuyện khiếu kiện vặt vãnh nữa.”
Mối quan tâm chính yếu của Kohlhaas nào phải là hai con ngựa – nếu đó là hai con chó thì ông cũng cảm thấy đau đớn như vậy – ông giận sôi sục khi nhận được phán quyết kia. Hễ nghe tiếng động ngoài sân là ông lại nhìn ra đường cái với cảm giác trông ngóng cực kỳ khó chịu để xem có phải là đám gia nhân của Lãnh chúa Tronka đến hay không, có thể là đến cùng với cả một lời xin lỗi, để trả lại hai con ngựa bị bỏ đói và kiệt sức; đây là lần duy nhất mà tinh thần của ông, vốn xưa nay vẫn được cuộc đời ưu ái, phải chờ đón một kết quả không hề đúng như lòng mong đợi. Ít lâu sau, ông nghe một người quen đã đi qua con đường đó nói rằng hai con ngựa của ông Tronkenburg vẫn được sử dụng giống như trước, chẳng khác gì những con ngựa của Lãnh chúa, để làm việc đồng áng; và trong nỗi đau khổ khi nhìn thấy thế gian đảo lộn nhường ấy, ông lại bất chợt thầm thấy mãn nguyện rằng ít ra trực giác của ông vẫn chính xác.
Kohlhaas mời một người quản điền ở làng bên đến gặp, người này từ lâu đã nghĩ đến việc khuếch trương tài sản bằng cách mua lại đất đai của láng giềng, và vừa ngồi xuống là Kohlhaas đã hỏi ngay rằng người kia muốn trả giá bao nhiêu để mua gia sản của ông ở Brandenburg và Saxony, mua hết tất cả, nhà cửa lẫn ruộng vườn. Nghe thế Lisbeth vợ ông tái mặt đi. Cô quay lại bế đứa con thơ đang chơi đùa dưới sàn nhà sau lưng mình lên, giấu mặt sau gò má hồng hào của đứa bé đang đùa nghịch với chiếc khăn quàng cổ của mẹ, cô ném một ánh mắt kinh hãi về phía chồng và những giấy tờ ông cầm trên tay.
Người quản điền kinh ngạc nhìn Kohlhaas, và hỏi căn cớ gì đã thúc đẩy một hành động lạ thường như vậy; và gia chủ, cố hết sức tỏ ra vui vẻ, trả lời ngay: Việc bán trang trại bên bờ sông Havel là ý nghĩ ông đã có từ lâu; cả hai đã nhiều lần nói chuyện về khả năng mua bán này; so với đất đai ở đây, ngôi nhà của ông ở ngoại thành Dresden chỉ là một thứ kèm thêm, không đáng kể; và nói ngắn gọn, nếu người quản điền chịu mua giúp ông cả hai tài sản đó thì ông sẵn sàng làm văn tự chuyển nhượng. Với vẻ bông đùa gượng gạo, ông nói thêm rằng trên đời này còn nhiều thứ quan trọng hơn Kohlhaasenbrück; và có thể có những mục đích nào đó còn ý nghĩa lớn lao hơn nhiều so với vai trò làm cha, làm chủ gia đình của ông; nói cách khác, ông đã quyết tâm theo đuổi một mục tiêu lớn mà chẳng bao lâu nữa người kia sẽ được biết.
Được lời như cởi tấm lòng, người quản điền nói vui với cô vợ Kohlhaas đang hôn đứa con chùn chụt: “Chắc là chồng bà sẽ không đòi trả tiền gấp đấy chứ!” Và ông ta đặt lên bàn chiếc mũ và cây gậy nãy giờ kẹp giữa hai đầu gối rồi đón lấy tờ giấy trong tay người lái ngựa và đọc. Kohlhaas kéo ghế lại gần giải thích rằng đây là một văn tự mua bán có hiệu lực trong bốn tuần; do chính tay ông thảo, chỉ còn thiếu chữ ký của hai bên và số tiền trị giá, cũng như chưa xác định mức bồi thường cho người mua nếu trong vòng bốn tuần Kohlhaas đổi ý không bán nữa; và ông vừa mời gọi người quản điền ra giá, vừa quả quyết với ông ta rằng mình thật sự muốn bán và sẽ tạo điều kiện dễ dàng. Trong lúc đó người vợ hiền của Kohlhaas cứ đi qua đi lại trong nhà; ngực phập phồng thở gấp đến nỗi chiếc khăn mà đứa con đang nghịch chơi muốn tuột khỏi vai cô. Người quản điền nói rằng ông ta không biết cách nào để định giá tài sản ở Dresden; nghe thế Kohlhaas vừa đẩy sang phía ông ta các thư từ trao đổi vào thời điểm mua lại cơ ngơi đó vừa trả lời rằng ông định giá là một trăm đồng vàng gulden; mặc dù giấy tờ cho thấy trước đây trị giá lúc mua lớn hơn ít nhất cũng gần gấp rưỡi.
Người quản điền đọc lại văn tự lần thứ hai, trong đó có một điều khoản rất có lợi cho ông ta là được toàn quyền hủy bỏ cam kết mua bán; trong lòng gần như đã quyết định rồi, ông ta nói rằng mình không biết làm gì với bầy ngựa đang ở trong chuồng; nhưng khi Kohlhaas trả lời rằng đằng nào thì ông cũng không có ý định bán bầy ngựa, và ông cũng muốn giữ lại ít vũ khí trong kho khí giới. Người quản điền do dự, ngần ngừ hồi lâu rồi đưa ra một mức giá mua, cái giá không tương xứng với giá trị tài sản mà ông ta đã từng nửa đùa nửa thật đề nghị với Kohlhaas lúc hai người đi dạo với nhau.
Kohlhaas đẩy bút và mực sang cho người quản điền ghi vào văn tự. Không tin vào mắt mình, người kia hỏi lại rằng có thực là thế không, và người lái ngựa trả lời có phần bực dọc: “Ông nghĩ là tôi đùa sao?” rồi với vẻ mặt trầm ngâm, người kia cầm bút lên viết vào văn tự. Người quản điền gạch bỏ điều khoản quy định rằng người bán phải bồi thường nếu đổi ý không bán nữa; ông ta bằng lòng trả một trăm đồng vàng gulden như là tiền cho vay cầm cố cơ ngơi ở Dresden mà ông ta không hề muốn mua lại; và cho người bán toàn quyền hủy bỏ hợp đồng trong vòng hai tháng. Cảm kích trước nghĩa cử này, người lái ngựa bắt tay người quản điền rất thịnh tình; và sau khi họ đã đồng ý với điều kiện chính là một phần tư số tiền được trả ngay lập tức bằng tiền vàng, và phần còn lại sẽ gửi vào một ngân hàng ở Hamburg sau ba tháng, Kohlhaas gọi người mang rượu ra uống mừng việc thương lượng thành công. Ông bảo người tớ gái mang rượu vào đi báo cho mã phu Sternbald thắng yên cương con ngựa hồng cho ông lên kinh thành lo công việc; và ông bảo với mọi người rằng ngay sau khi trở về, ông sẽ nói rõ hơn về những điều đang còn giữ riêng cho mình. Ngay sau đó, vừa rót rượu đầy ly, ông hỏi chuyện tình hình chiến tranh mới xảy ra giữa người Ba Lan và người Thổ; tranh luận chính sự đủ điều với người quản điền về đề tài này; và uống thêm một tuần rượu nữa chúc mừng việc giao dịch của họ thành công rồi cho người kia kiếu từ.
Khách vừa đi khỏi là Lisbeth quỳ gối trước mặt chồng khóc lóc: “Nếu ông mà còn thương tôi, còn thương những đứa con tôi sinh hạ cho ông; nếu ông chưa từ bỏ vợ con, vì nguyên cớ gì tôi không biết, thì ông hãy nói cho tôi hay những chuyện sắp đặt kinh khủng này là có nghĩa gì.” Kohlhaas nói: “Mình ơi, thực tình là chẳng có gì đáng để mình lo sợ. Tôi nhận được một bản phán quyết của toà bảo rằng vụ tôi kiện Lãnh chúa Wenzel von Tronka là làm to chuyện vô cớ. Và có thể đó là do hiểu lầm nên tôi đã quyết định đích thân đệ đơn kiện lên Chúa công.”
“Thế tại sao phải bán nhà?” người vợ vừa kêu lên vừa đứng dậy, mặt mếu máo sợ hãi. Người lái ngựa nhẹ nhàng ôm vợ vào lòng và đáp: “Bởi vì, Lisbeth yêu quý ơi, tôi không muốn sống ở một xứ sở mà những quyền chính đáng của tôi không được bảo vệ. Nếu bị chà đạp thì tôi thà làm con chó còn hơn là làm con người! Tôi tin rằng mình đồng tình với tôi.”
“Thế điều gì khiến ông tin chắc là những quyền chính đáng của ông sẽ không được bảo vệ chứ?” người vợ hỏi dồn. “Nếu ông mang đơn thỉnh nguyện đi gặp Đức Tuyển hầu một cách nhún nhường đúng như tính cách của ông thì làm sao ông biết là đơn sẽ bị bác, hay là họ sẽ không chịu xét xử cho ông?”
“Nói hay lắm,” Kohlhaas đáp, “nếu nỗi sợ của tôi là vô căn cứ, thì nhà cửa cũng vẫn chưa bán mà. Tôi có nghe nói bản thân Đức Tuyển hầu là người công chính; và nếu tôi mà vượt qua được mấy vòng tùy tùng bao quanh để gặp ngài trực tiếp, thì chắc chắn tôi sẽ giành được công lý, và chưa đầy một tuần là tôi sẽ vui vẻ trở về với mình và với công việc cũ của tôi. Và sau đó,” ông vừa nói thêm vừa ôm hôn vợ, “tôi không muốn gì hơn là được sống êm đềm với mình cho đến hết đời! Tuy nhiên,” ông tiếp tục, “tôi cần phải chuẩn bị cho mọi sự việc có thể xảy ra; cho nên tôi muốn mình, nếu được, hãy đưa bọn trẻ đến Schwerin, đến nhà bà dì của mình, người mà lâu nay tôi biết mình cũng có ý muốn ghé thăm.”
“Sao?” người vợ kêu lên. “Ông muốn tôi đi Schwerin? Đưa bọn trẻ vượt qua biên giới, và đến nhà dì tôi ở Schwerin?” Nỗi sửng sốt khiến cô nghẹn lời.
“Đúng như thế,” Kohlhaas nói, “và nếu có thể, hãy đi ngay lập tức, để tôi không bị vướng bận khi chuẩn bị những biện pháp kế tiếp mà giải quyết chuyện này.”
“A! Giờ thì tôi hiểu ông rồi!” người vợ kêu lên. “Ông đâu cần gì nữa, ngoại trừ vũ khí với ngựa; còn mọi thứ khác thì ai muốn lấy thì cứ tự tiện!” Nói xong cô quay đi, gieo mình xuống ghế và oà khóc.
Kohlhaas giọng đầy thảng thốt: “Lisbeth yêu quý, thế là thế nào? Chúa đã ban cho tôi vợ con và của cải; Chẳng lẽ bây giờ là lần đầu tiên tôi phải ước ao điều ngược lại sao…?” Ông nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh Lisbeth, người vợ xấu hổ vì lời nói của chồng bèn ôm choàng lấy ông.
“Hãy nói tôi nghe,” Kohlhaas vừa nói vừa vuốt cho ngay ngắn lọn tóc rủ trên trán vợ. “Tôi phải làm sao đây? Tôi có nên từ bỏ vụ kiện này không? Tôi có nên đến Tronkenburg và xin tên lãnh chúa kia trả lại ngựa cho tôi, leo lên yên và cưỡi về nhà với mình hay không?”
Lisbeth không dám nói Đúng thế! Đúng thế! Đúng thế! – khóc nức nở, cô lắc đầu, kéo chồng sát lại và hôn lên cổ những nụ hôn nóng bỏng.
“Thế thì tốt!” Kohlhaas thốt lên. “Nếu mình đồng ý rằng tôi muốn tiếp tục làm ăn thì tôi phải giành được công lý, nếu vậy hãy cho tôi sự tự do cần thiết để làm được điều đó!” Dứt lời, ông đứng dậy và nói với người mã phu vừa đến báo rằng con ngựa hồng đã yên cương sẵn sàng: sáng ngày mai phải thắng yên cương cho hai con ngựa màu hạt dẻ để đưa vợ ông đi Schwerin. Lisbeth nói cô có một đề nghị. Cô đứng dậy, vừa gạt nước mắt và hỏi người chồng lúc này đang ngồi ở bàn làm việc, liệu Kohlhaas có chịu giao đơn thỉnh nguyện cho cô và cho phép cô thay chồng đến Berlin trao cho Đức Tuyển hầu hay không.
Rất xúc động trước điều bất ngờ này, Kohlhaas ôm vợ vào lòng và nói: “Mình yêu quý, việc đó hoàn toàn không thể được! Chung quanh Chúa công là bao nhiêu chướng ngại, cho nên bất cứ ai tìm cách gặp ngài đều có thể gặp nhiều bất trắc.”
Lisbeth trả lời rằng rằng có hàng ngàn tình huống mà phụ nữ dễ dàng vượt qua hơn nam giới để gặp Đức Tuyển hầu. “Hãy đưa đơn thỉnh nguyện cho tôi,” cô lại van nài, “nếu ông chỉ muốn muốn một điều là chắc chắn đơn này sẽ đến tay Chúa công, thì tôi thề với ông rằng: ngài sẽ nhận được.”
Đã từng biết rõ lòng can đảm và sự khôn ngoan của vợ mình trong quá khứ, Kohlhaas hỏi cô định làm cách nào. Ngượng ngùng cúi mặt xuống, người vợ trả lời rằng người quản lý lâu đài của Đức Tuyển hầu Saxony, ngày xưa, khi được bổ nhiệm ở Schwerin, đã từng cầu hôn cô ta; người này hiện nay đã yên bề gia thất, đã có con cái, nhưng dù vậy vẫn không quên người cũ – và nói tóm lại, Kohlhaas có thể an tâm giao việc cho cô, vì lợi thế này và nhiều yếu tố khác mà kể ra sẽ mất quá nhiều thời gian. Kohlhaas mừng rỡ vừa hôn vợ vừa nói rằng ông chấp thuận đề nghị của cô, dặn dò là Lisbeth chỉ cần tìm cách tá túc trong phòng của vợ người quản lý lâu đài là chắc chắn sẽ được diện kiến Chúa công. Ông trao đơn thỉnh nguyện cho vợ, thắng hai con ngựa màu hạt dẻ vào cỗ xe, thu xếp cho cô yên ấm chỗ ngồi rồi tiễn vợ đi cùng Sternbald, mã phu trung thành của ông.
Nhưng trong tất cả biện pháp bất thành mà ông đã tiến hành cho mục đích của mình, chuyến đi này có lẽ là thất bại lớn nhất. Vài ngày sau, Sternbald trở lại trang trại, dắt ngựa đi bộ bên cỗ xe mà bên trong là Lisbeth nằm dài với lồng ngực bầm dập trầm trọng. Kohlhaas tái mặt khi bước đến cỗ xe và không sao hiểu được nguyên do của tai hoạ này. Theo lời mã phu, người quản lý của Đức Tuyển hầu đi vắng nên họ buộc phải trọ qua đêm tại một lữ quán gần lâu đài; Lisbeth đã rời lữ quán vào sáng hôm sau, bảo mã phu ở lại trông nom những con ngựa; và mãi đến tối cô mới quay về trong tình trạng hiện tại. Dường như cô đã liều lĩnh tự ý xông vào gặp Chúa công, và lỗi hoàn toàn không phải do ngài mà do một lính hộ vệ chỉ vì sốt sắng thái quá mà vung trường thương quất cán vào ngực cô. Ít ra thì đó là lời thuật lại của những người tối hôm ấy đã đưa cô, vẫn còn bất tỉnh, về lữ quán; còn chính cô thì không thể nói được vì miệng trào máu. Lá đơn thỉnh nguyện trong tay cô sau đó đã có một vương hầu nào đó lấy đi. Sternbald nói anh ta lúc đó đã muốn lên ngựa phi ngay về báo tin chẳng lành này; nhưng bất chấp các y sĩ có mặt, cô vẫn một mực đòi được đưa về Kohlhaasenbrück mà không báo trước cho chồng mình biết.
Lisbeth đã hoàn toàn kiệt quệ vì cuộc hành trình, Kohlhaas bèn đưa cô vào giường, và người vợ với những hơi thở gắng gượng đau đớn, sống được thêm vài ngày nữa. Bao nhiêu cố gắng để làm cho cô hồi tỉnh, để làm sáng tỏ những chuyện đã xảy ra, đều uổng công; Lisbeth nằm liệt giường, hai mắt nhắm nghiền, không thể trả lời một câu nào. Chỉ ngay trước khi chết, người vợ mới tỉnh lại trong chốc lát. Vì khi một giáo sĩ đạo Luther đang đứng bên giường bệnh, (theo gương chồng, người vợ đã theo tôn giáo mới truyền bá này), và với giọng trang nghiêm, ông ta đọc to một chương trong Kinh thánh thì đột nhiên Lisbeth mở mắt, vẻ mặt u sầu, nhìn vị giáo sĩ và lấy cuốn Kinh thánh trong tay ông ta như thể không có gì cần phải đọc, rồi có vẻ như cô tìm kiếm điều gì trong những trang sách; sau đó cô dùng đầu ngón tay chỉ cho Kohlhaas đang ngồi bên giường một câu sau đây: “Hãy tha thứ cho kẻ thù của ngươi; cũng hãy gia ân cho những kẻ ghét ngươi.”
Rồi với một ánh mắt chứa chan tình cảm, người vợ nắm chặt tay chồng, và chết.
Kohlhaas nghĩ thầm: Cầu Chúa đừng bao giờ tha thứ cho tôi nếu như tha thứ cho tên lãnh chúa kia! Nước mắt chảy dài trên má, ông hôn vợ, vuốt mắt cô rồi rời khỏi phòng.
Ông lấy một trăm đồng vàng gulden mà người quản điền đã trả trước cho căn nhà của ông ở Dresden và thuê làm một đám tang long trọng như đám tang một công nương: một quan tài bằng gỗ sồi được viền kim loại, những chiếc gối bằng lụa có ngù vàng tua bạc, và một huyệt mộ sâu bốn thước lát đá phiến với đá vôi. Đích thân ông đứng bên cạnh huyệt, bế đứa con út trên tay, và theo dõi công trình. Đến ngày mai táng, thi hài Lisbeth, trắng như tuyết, được quàn trong một đại sảnh mà ông đã cho lót vải lanh đen. Giáo sĩ vừa kết thúc một bài điếu văn cảm động bên kiệu quan tài thì có người mang đến phán quyết của Đức Tuyển hầu về đơn thỉnh nguyện của người vừa từ trần, đại ý rằng Kohlhaas phải đến Tronkenburg nhận ngựa về và không được kiện cáo gì nữa nếu không sẽ bị đi tù. Kohlhaas cất lá thư ấy vào túi và cho đưa quan tài lên xe ngựa.
Ngay sau khi mộ đã được đắp đất, và thánh giá đã cắm xuống, và những người đưa tang đã ra về, ông lại buông mình xuống chiếc giường của vợ giờ đã trống vắng, rồi sau đó bắt tay vào việc trả thù. Ông ngồi xuống thảo một tối hậu thư, nói rằng bằng thẩm quyền đương nhiên của mình, ông ra lệnh cho Lãnh chúa Wenzel von Tronka, trong vòng ba ngày kể từ khi nhận được thư này, phải tới Kohlhaasenbrück trả lại những con ngựa mà y đã lấy của ông và vắt kiệt sức trên đồng ruộng của y, và chính y phải nuôi chúng cho khỏe mạnh lại như trước. Thư này ông cho một người đại diện lên ngựa mang đi, dặn dò người này phải quay trở lại Kohlhaasenbrück ngay sau khi giao thư.
Vì ba ngày đã trôi qua mà không thấy ngựa được trả lại, ông cho gọi Herse đến; cho người mã phu biết những điều ông đã ra lệnh cho gã quý tộc trẻ kia phải làm đối với việc chăm sóc hai con ngựa; rồi ông hỏi anh ta hai câu. Herse có muốn đi cùng ông đến Tronkenburg bắt tên lãnh chúa về đây chăm sóc ngựa không; và Herse có muốn giám sát việc chăm sóc ngựa của tên lãnh chúa không, nếu cần cứ dùng roi mà trừng trị y. Nghe vừa dứt câu là người mã phu đã kêu lên: “Thưa ông, đi ngay hôm nay, nếu được!” và tung chiếc mũ lên trời rồi quả quyết với Kohlhaas rằng anh ta sẽ sai làm một dây thừng có mười nút thắt để dạy cho tên lãnh chúa cách chải lông ngựa! Thế là Kohlhaas bán nhà cửa, cho con cái lên một chiếc xe ngựa và gửi chúng qua biên giới; và khi màn đêm buông xuống, ông cho gọi hết số gia nhân còn lại của mình, tổng cộng bảy người, toàn là người tâm phúc đáng tin cậy; giao cho họ vũ khí và ngựa, rồi tất cả lên đường đến Tronkenburg.
Ba hôm sau, lúc sẩm tối, toán người này phi ngựa vào cổng, dày xéo tên thu phí quá lộ và tên lính gác đang đứng nói chuyện, và tấn công Tronkenburg. Trong khi dãy lều gỗ trong sân lâu đài thình lình bốc cháy, và Herse chạy lên chiếc cầu thang xoắn ốc dẫn lên tháp canh, bất ngờ tấn công tên quản lý và tên quản gia đang mặc phong phanh ngồi đánh bạc, đích thân Kohlhaas xông vào chỗ ở của Lãnh chúa Wenzel. Thật chẳng khác gì Thiên thần Công lý từ trên trời bay xuống; tên Lãnh chúa trẻ tuổi, đang vừa cười ầm vừa đọc cho một nhóm bạn nghe bức tối hậu thư mà người lái ngựa đã gửi cho y, đã không nghe thấy tiếng của Kohlhaas ở dưới sân; nhìn thấy ông, y kêu lên, mặt cắt không còn hột máu: “Anh em, hãy tự cứu lấy thân!” rồi biến mất. Bước vào phòng, Kohlhaas đối đầu với tay quý tộc Hans von Tronka, bèn thộp cổ hắn quẳng vào góc nhà, óc phọt tung toé sàn đá, rồi trong lúc các mã phu của mình trấn áp và đánh tan tác những tên quý tộc khác đã chộp được vũ khí, ông cứ hỏi tên Wenzel đâu rồi? Không thấy câu trả lời nào từ những kẻ thất kinh hồn vía này, ông đạp tung cánh cửa hai căn phòng dẫn tới các chái nhà xa hơn của lâu đài và không tìm thấy ai ở đó cả, thế là vừa chửi thề ông vừa đi xuống sân, cắt cử người canh gác các lối ra.
Lúc này, ngọn lửa từ dãy lều gỗ đã vồ lấy lâu đài và các tòa nhà phụ, phun khói dày đặc lên trời, và trong lúc Sternbald cùng ba mã phu hăng say khác đang dọn sạch mọi thứ gì có thể lôi ra được làm chiến lợi phẩm và chất lên những con ngựa, thì từ những cửa sổ mở toang của tháp canh, trong tiếng hét đắc thắng của Herse, rơi xuống xác của tên quản lý lâu đài và tên quản gia, cùng với xác của vợ con chúng. Khi bà già mắc bệnh thống phong trông coi việc nhà cho tên lãnh chúa quỳ mọp dưới chân Kohlhaas, ông tạm dừng một chút trên bậc thềm, tra hỏi: “Wenzel von Tronka đang ở đâu?” Và khi bà già trả lời với giọng yếu ớt, run rẩy, rằng có thể tên lãnh chúa đang ẩn náu trong nhà nguyện, thì ông gọi thêm hai mã phu cầm đuốc đi cùng. Không có chìa khóa, đòn sắt và rìu phá tung cửa nhà nguyện, bàn thờ và băng ghế bị lật tung; Kohlhaas vừa thịnh nộ vừa sửng sốt vì không thấy dấu vết của tên lãnh chúa đâu cả.
Tình cờ đang lúc rời khỏi nhà nguyện thì Kohlhaas thấy một tên gia nhân trẻ của Tronkenburg hấp tấp chạy qua để giải cứu những con chiến mã của lãnh chúa trong một chuồng ngựa bằng đá đang bị ngọn lửa đe doạ. Thoáng thấy hai con ngựa của mình trong một chuồng nhỏ mái tranh kề bên, Kohlhaas liền hỏi tên chăn ngựa: “Tại sao không cứu những con ngựa này?” Tên chăn ngựa, tay tra chìa vào ổ khóa, miệng trả lời: “Cái chuồng đó đã bắt lửa rồi.” Nghe thế Kohlhaas giật phắt chìa khóa ra và ném qua bức tường, rồi dùng má kiếm đánh liên tục vào tên chăn ngựa, buộc hắn phải chạy vào cái chuồng đang bốc cháy cứu hai con ngựa của ông trước tiếng cười rùng rợn của những kẻ đứng xem. Hắn cầm dây cương kéo được hai con ngựa ra ngoài thì chỉ chốc lát sau là cái chuồng sụp đổ; hắn đứng đó, mặt mày tái mét vì sợ hãi, nhưng không thấy Kohlhaas đâu cả. Và khi theo các mã phu vào trong sân lâu đài, hắn cứ hỏi người lái ngựa – ông đã mấy lần không để ý gì tới hắn – rằng bây giờ phải làm gì với những con ngựa này? Và Kohlhaas bất ngờ vung chân lên đá một cú mạnh khủng khiếp, tên chăn ngựa mà trúng cú đá ấy thì chết chắc. Không buồn trả lời, ông phóng lên con chiến mã của mình, án ngữ ở cổng ra vào, và trong khi toán mã phu tiếp tục công việc của họ, ông chờ đợi ngày mới âm thầm đến.
Khi trời sáng, toàn bộ lâu đài đã bị thiêu rụi chỉ còn những bức tường, và không còn lại một ai ngoài Kohlhaas và bảy người của mình. Ông xuống ngựa và trong ánh nắng mai bắt đầu kiểm tra mọi ngóc ngách; trái với mong đợi, ông buộc phải chấp nhận rằng mục đích của việc tấn công lâu đài đã bất thành, lòng đầy đau khổ và cay đắng, ông bèn sai Herse cùng vài người khác đi dò la xem tên lãnh chúa đã trốn chạy về hướng nào. Ông đặc biệt nghi ngờ một nơi giàu có bên bờ sông Mulde là nữ tu viện Erlabrunn, bà Antonia von Tronka mẹ bề trên ở đó được dân trong vùng coi là một người sùng đạo, bác ái và thánh thiện; đối với Kohlhaas bất hạnh này, rất có khả năng là tên lãnh chúa, khi đã mất hết của cải, có lẽ đã chạy trốn đến tu viện này vì nữ tu Antonia là cô của y, người đã dạy dỗ y từ khi còn tấm bé. Sau khi nhận biết tình hình, Kohlhaas lên tháp canh, trên đó còn lại một căn buồng có thể trú ngụ được, và soạn ra cái gọi là “Tuyên cáo Kohlhaas,” trong đó ông ra lệnh cho cả xứ này không được giúp đỡ gì cho Lãnh chúa Wenzel von Tronka, kẻ mà ông đang giao tranh trong một cuộc chiến chính đáng, và bắt buộc mọi người dân cùng họ hàng thân thích nếu bắt gặp y thì phải giao nộp cho ông, nếu không sẽ phải chịu tội chết và không tránh khỏi bị thiêu hủy mọi tài sản có thể có. Tuyên cáo này ông đã cho các lữ khách và kẻ vãng lai mang đi phân phát khắp nơi; chưa hết, ông còn giao cho mã phu Waldmann của mình một bản kèm theo mệnh lệnh rõ ràng là phải trao tận tay nữ tu Antonia ở Erlabrunn. Sau đó, ông nói chuyện với một số gia nhân ở Tronkenburg, những người này vốn có bất mãn với tên lãnh chúa, và bị cám dỗ trước viễn cảnh chia phần chiến lợi phẩm, nên muốn đầu quân cho Kohlhaas; ông trang bị nỏ và dao găm cho họ làm lính bộ binh, và ra lệnh cho họ lên ngựa ngồi sau lưng các mã phu của ông; và sau khi ông đã đổi tất cả những gì mà toán quân của mình đã thu thập được thành tiền, và phân phát cho tất cả thuộc hạ, ông nghỉ ngơi vài giờ trong chòi gác cổng lâu đài, tạm quên công việc đáng buồn này.
Gần trưa, Herse quay về và khẳng định điều mà cõi lòng u ám của ông luôn nghi ngờ: tên lãnh chúa quả thực đang ở Erlabrunn cùng với bà cô Antonia von Tronka của y. Có lẽ y đã trốn thoát qua một cửa sau của lâu đài dẫn ra ngoài, và từ đó đi xuống một dãy bậc thang đá chật hẹp có mái che để đi tới bờ sông Elbe và lên một chiếc thuyền. Herse báo rằng tên lãnh chúa đã tới được một ngôi làng trên sông Elbe khoảng nửa đêm, trong một chiếc thuyền không có mái chèo hay bánh lái, trước sự kinh ngạc của những người dân địa phương đã tụ tập lại xem đám cháy ở Tronkenburg, và y đã đi tới Erlabrunn trong một chiếc xe bò của dân làng.
Nghe thế Kohlhaas thở hắt ra một tiếng rồi hỏi đã cho bầy ngựa ăn chưa. Và khi được báo rằng ngựa đã được cho ăn, ông ra lệnh cho toán quân của mình lên yên và ba giờ sau họ có mặt ở Erlabrunn. Bão đang ầm ầm kéo tới ở chân trời khi họ tiến vào sân tu viện, với những ngọn đuốc cháy rực. Trong lúc mã phu Waldmann ra đón, báo rằng anh ta đã trao bản tuyên cáo đúng như đã sai bảo, thì Kohlhaas nhìn thấy mẹ bề trên và thầy tư tế của tu viện vừa đi ra cửa vừa nói chuyện với vẻ bấn loạn. Thầy tư tế, một ông già thấp bé, tóc bạc trắng, nhìn Kohlhaas đầy giận dữ và cao giọng mạnh dạn sai bảo đám gia nhân mang giáp phục cho ông ta và kéo chuông báo động; còn bà Antonia, mẹ bề trên, mặt tái nhợt như tờ giấy, tay cầm cây thánh giá bằng bạc, bước xuống sân, và cùng với tất cả các nữ tu của bà ta quỳ phủ phục trước đầu ngựa của Kohlhaas.
Trong khi Sternbald và Herse trấn áp thầy tư tế không có vũ khí, giải ông ta đi như một tù nhân về phía bầy ngựa, Kohlhaas hỏi bà Antonia: “Lãnh chúa Wenzel von Tronka ở đâu?” Và bà ta vừa tháo một xâu chìa khoá lớn ở thắt lưng ra vừa nói: “Ở Wittenberg, thưa tôn ông,” rồi nói thêm với giọng run rẩy: “Hãy kính sợ Chúa và xin đừng làm gì sai trái!” Như lại sa xuống địa ngục vì việc báo thù không như ý, Kohlhaas nghe thế liền quay ngựa đi và định ra lệnh “Đốt sạch hết nơi này!” thì một tia sét lớn giáng xuống mặt đất bên cạnh ông. Quay ngựa lại nhìn bà nữ tu lần nữa, Kohlhaas hỏi rằng bà ta có nhận được tuyên cáo của ông chưa? Và khi nghe bà ta, với giọng yếu ớt, gần như nói không nên lời, đáp rằng có, ông lại hỏi: “Khi nào?” “Cách đây hai giờ, có Chúa chứng giám, sau khi lãnh chúa, cháu tôi, đã chạy trốn rồi!” Và Waldmann, thấy Kohlhaas quay lại cau mày thịnh nộ, liền ấp úng xác nhận, bảo rằng do sông Mulde nước dâng cao vì mưa lớn nên anh ta đã đến đây chậm trễ; thế là Kohlhaas bèn trấn tĩnh lại. Một trận mưa xối xả bất ngờ dập tắt những ngọn đuốc, rơi lộp độp xuống mặt sân rải sỏi, như xoa dịu nỗi đau trong cõi lòng bất hạnh. Ngả mũ chào bà nữ tu, ông quay ngựa, thúc đinh vào hai mạn sườn con vật, và thốt lên: “Các anh em, đi theo tôi, tên lãnh chúa đang ở Wittenberg!” rồi rời khỏi tu viện.
Màn đêm buông xuống, ông ghé vào một lữ quán bên đường, do bầy ngựa đã kiệt sức, ông buộc phải nghỉ tại đây một ngày, và hoàn toàn ý thức được rằng với một toán mười người (vì đó là toàn bộ quân số của ông) thì không thể tấn công một nơi rộng lớn như Wittenberg, ông bèn thảo bản tuyên cáo thứ hai, trong đó, sau khi mô tả ngắn gọn những gì đã kinh qua, ông kêu gọi “mọi Ki-tô hữu hiền lương,” như cách gọi của ông, “hãy vì tiền thưởng và những đặc quyền khác của chiến tranh mà theo ông chống lại Lãnh chúa von Tronka, kẻ thù chung của mọi Ki-tô hữu.” Trong một tuyên cáo khác, sắp phân phát ra, ông lại tự xưng là “một người tự do, không biết phục tùng ai ngoài chính Đức Chúa Trời.” Việc cưỡng đoạt tài sản này quả là xằng bậy và điên rồ, nhưng mùi tiền và viễn cảnh chiến lợi phẩm đã đưa đến cho ông một số người đầu quân trong đám tàn binh bị mất miếng ăn vì cuộc chiến với Ba Lan đã kết thúc; thực tế là đông tới mức chẳng bao lâu sau, quân số đã tăng lên hơn ba mươi người khi ông đi dọc theo hữu ngạn sông Elbe, với mục đích thiêu rụi Wittenberg.
Cùng với bầy ngựa và thuộc hạ, ông dựng trại dưới mái một kho gạch cũ nát giữa khu rừng âm u quạnh quẽ, và sau đó, thông qua mã phu Sternbald, người được ông sai cải trang đi vào thành phố với một bản sắc lệnh, Kohlhaas biết rằng ai cũng đã đọc sắc lệnh này, ông cùng với thuộc hạ đột kích Wittenberg vào đêm trước lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, và trong khi cư dân còn đang say ngủ trên giường, ông phóng hoả đồng loạt nhiều nơi. Trong khi thuộc hạ cướp bóc vùng ngoại ô, ông ghim chặt một cáo thị trên cột cửa nhà thờ, đại ý viết rằng “ta, Kohlhaas, đã phóng hoả thành phố, và, nếu Lãnh chúa Tronka không ra nộp mình, ta sẽ ra tay thiêu rụi Wittenberg,” theo lời ông, “để không còn bức tường nào cho y ẩn nấp đằng sau nữa.”
Dân chúng hãi hùng khôn tả trước tội ác khủng khiếp này; nhưng may sao đêm ấy mùa hè đứng gió, lửa phá hủy không quá mười chín ngôi nhà, dù phải nói là có cả một nhà thờ, đến rạng sáng lửa vẫn còn cháy khi viên Tổng đốc cao niên Otto von Gorgas, phái một biệt đội năm mươi người đi bắt kẻ gây hấn điên dại kia. Chỉ huy biệt đội là Gerstenberg đã tỏ ra kém cỏi đến mức lực lượng của Kohlhaas, thay vì bị đánh bại, lại có thêm danh tiếng là có sức mạnh binh mã đáng sợ; bởi vì khi Gerstenberg đã chia quân thành nhiều nhóm, tưởng rằng sẽ bao vây và tiêu diệt được Kohlhaas thì điều ngược lại đã xảy ra. Kohlhaas đã tập trung thuộc hạ lại, phản công, tập kích và đánh bại từng nhóm riêng lẻ của đội quân Gerstenberg, tới mức đến tối hôm sau, không một người nào trong đội quân gánh vác kỳ vọng của cả thành phố Wittenberg còn sống sót để chống cự lại ông trên chiến trường. Bị tổn thất không đáng kể trong cuộc giao tranh, Kohlhaas lại phóng hoả thành phố vào sáng hôm sau, và âm mưu kinh sợ của ông lần này đã thành công đến mức nhiều ngôi nhà và gần như mọi kho thóc và vựa lúa ở ngoại thành đều cháy rụi. Đồng thời, ông cũng không quên đưa ra sắc lệnh đã nói ở trên, lần này cố tình ngang ngược ghim tờ cáo thị đó lên một góc tường ngay tòa thị chính, thêm vào một đoạn tái bút nói về số phận của Gerstenberg, viên chỉ huy do đích thân quan tổng đốc chọn lựa, giờ đã bỏ mạng sa trường.
Hết sức tức giận trước sự thách thức rành rành này, Tổng đốc Gorgas cùng một vài vương hầu đích thân cầm đầu một đạo quân binh khoảng một trăm năm mươi người. Ông ta đã cho Wenzel von Tronka, theo thư thỉnh nguyện của y, một lính gác có vũ khí để bảo vệ y khỏi bị dân chúng hành hung, rõ ràng là dân ở đây muốn y ra đi cho khuất mắt; và sau khi cắt cử lính canh trên các bức tường và trong mọi ngôi làng xung quanh để đề phòng thành phố bị tấn công bất ngờ, ông ta thân chinh ra quân vào ngày lễ Thánh Gervasius để bắt con rồng lửa đang hủy hoại vùng đất này. Người lái ngựa thừa khôn ngoan để né tránh đạo quân của Gorgas, và sau khi khéo léo đánh lừa cho quan tổng đốc ra khỏi thành phố được năm dặm bằng cách điều binh chạy hết chỗ này đến chỗ kia và bằng nhiều mưu mẹo khác khiến quan tổng đốc lầm tưởng rằng đối phương, do bị áp đảo trước quân số hùng mạnh hơn của ông ta, đã toan rút lui về lãnh địa Brandenburg; thì bất ngờ vào chập tối ngày thứ ba, phe Kohlhaas quay ngược lại, thúc ngựa phi nước đại trở lại Wittenberg và phóng hoả thành phố lần thứ ba. Chính Herse, đã cải trang lẻn vào thành phố, là người thực hiện thủ đoạn kinh hoàng đó; và đám cháy lần này, do có gió bắc thổi mạnh, trong vòng ba giờ đã tàn phá và thiêu rụi bốn mươi hai ngôi nhà, hai nhà thờ, mấy nữ tu viện cùng trường học, và ngay cả dinh tổng đốc, chỉ còn tro bụi và khói.
Tổng đốc Gorgas sáng hôm ấy vẫn còn tưởng rằng đối phương đang ở Brandenburg, khi hay tin ông ta vội vàng trở về thì thấy thành phố náo loạn về những chuyện đã xảy ra; dân chúng đã tụ tập mấy nghìn người trước ngôi nhà chốt chặt cửa và đóng thanh chắn của Lãnh chúa Tronka, họ la hét đòi y phải đi khỏi nơi này. Hai chánh hội đồng Jenkens và Otto, sắc phục chỉnh tề dẫn đầu toàn bộ uỷ viên thành phố, đã phí công thuyết phục dân chúng rằng họ nên chờ đến khi sứ giả trở về, người này đã được phái đến Tổng lý phủ Dresden xin phép đưa lãnh chúa Tronka đến đó, nơi mà gã quý tộc kia có nhiều lý do để muốn tới. Giáo mác và gậy gộc lăm lăm, đám đông nào quan tâm đến lời nói của quan trên, họ cứ xông lên, hành hung luôn cả mấy vị uỷ viên hội đồng ủng hộ các biện pháp nặng tay trừng trị đám đông, và toan san bằng ngôi nhà thì Tổng đốc Otto von Gorgas và đội kỵ binh của ông xuất hiện. Vốn được dân chúng tuân phục và kính nể uy phong, lão nhân cao quý này ngay bên ngoài thành phố đã bắt được ba tên trong nhóm phóng hoả ác ôn – một thành công như để đền bù cho mục tiêu lớn hơn đã thất bại của ông – và những tên côn đồ này giờ đây đã bị xiềng xích trình diện dân chúng; trước đám đông ông ta trấn an hội đồng thành phố bằng những lời khôn khéo rằng kẻ tiếp theo sẽ chịu gông cùm chính là Kohlhaas, bởi quan tổng đốc bây giờ đang truy đuổi y. Cùng với nhiều cách xoa dịu khác, thế là ông ta xua tan được nỗi hoảng sợ của đám đông, và khiến họ bớt lo ngại về sự hiện diện của Lãnh chúa Tronka, ít ra là cho đến khi sứ giả từ Dresden trở về.
Rồi quan tổng đốc xuống ngựa cùng với mấy kỵ binh đi vào ngôi nhà sau khi các hàng rào và cọc nhọn đã được tháo bỏ. Bên trong, ông ta thấy Lãnh chúa Tronka hết bất tỉnh lại ngất xỉu trong tay hai y sĩ đang cố làm cho y hồi phục bằng đủ loại tinh dầu và kích dược. Tổng đốc Gorgas cảm thấy đây không phải là lúc thích hợp để nói chuyện về nguyên do gây ra cuộc bạo loạn này cho nên ông ta, với vẻ khinh bỉ thầm lặng, chỉ nói với tay quý tộc kia rằng y nên mặc quần áo vào, và vì sự an toàn của bản thân y, hãy đi theo ông ta đến nhà tù. Khi đã được khoác cho chiếc áo chẽn và chụp lên đầu chiếc mũ sắt, ngực mở phanh vì khó thở, lãnh chúa Tronka được dìu ra đường, một bên là quan tổng đốc, một bên là người anh rể của y, Bá tước von Gerschau, thì những lời nguyền rủa thậm tệ và kinh khủng nhất dậy lên vang trời. Đám đông, trước hàng rào vệ binh đang vất vả ngăn cản, đã gọi y là đồ hút máu, là thứ dịch bệnh quấy nhiễu khốn nạn, là tai hoạ của Wittenberg, và sự huỷ hoại của Saxony; và sau một chuyến đi khổ sở qua thành phố tan hoang, mấy lần tay lãnh chúa rơi cả mũ sắt mà dường như không hề hay biết, mỗi lần lại có một kỵ binh nhặt lên trao lại, cuối cùng đoàn người cũng đến được nhà tù, và y biến mất dạng trong một tòa tháp, dưới sự bảo vệ của một vệ binh cầm vũ khí.
Nhưng rồi thành phố lại đối mặt với nỗi lo sợ mới khi sứ giả trở về cùng với chỉ dụ của Đức Tuyển hầu. Bởi vì chính phủ Saxony, sau khi nhận được cấp báo của công dân Dresden, lại không cho Lãnh chúa Tronka nương náu ở kinh thành trước khi bắt giam hết những kẻ đốt phá và giết người kia; ngược lại, chỉ dụ ra lệnh cho Tổng đốc phải bảo đảm an nguy cho tay lãnh chúa bất kể y đang ở đâu – và y phải ở một nơi nào đó – bằng mọi lực lượng hiện có, và để cho an lòng các thiện dân của Wittenberg, chỉ dụ nói rằng một đạo quân năm trăm người, dưới sự chỉ huy của Hoàng thân Friedrich của Meissen, đang đến để bảo vệ thành phố này tránh khỏi những cuộc cướp phá tương tự.
Quan tổng đốc thừa hiểu rằng không có cách giải quyết nào kiểu này có thể làm vơi được nỗi sợ hãi của dân chúng, vì người lái ngựa kia không những đã chiến thắng nhiều trận giao tranh bên ngoài thành phố, mà sức mạnh lực lượng của y giờ đây là đề tài của những tin đồn khó chịu; cách chiến đấu của y, với những thuộc hạ cải trang, với hắc ín, rơm rạ và lưu huỳnh, thật sự là khủng khiếp và chưa từng có, đủ để cười khinh những phương sách bảo vệ lớn hơn nhiều so với những gì hiện được Hoàng thân Meissen hứa hẹn. Suy nghĩ thật nhanh, Tổng đốc Gorgas quyết định ém nhẹm hết các tin tức về quyết định của chính phủ. Ông ta chỉ cho niêm yết ở bốn góc thành phố một bức thư trong đó Hoàng thân Meissen thông báo việc người này sắp đến. Lúc trời rạng sáng, một cỗ xe ngựa bít bùng đã rời khỏi sân nhà tù, được hộ tống bởi bốn kỵ binh đầy vũ khí, đi theo ngã Leipzig, với những lời bóng gió của toán kỵ binh ngụ ý rằng họ đang đi tới Pleissenburg. Thế là dân chúng bây giờ đã an tâm về tên lãnh chúa rắc rối mà sự hiện diện của y đã gieo hoạ binh lửa cho họ, còn quan tổng đốc lên đường cùng đạo quân ba trăm người để gia nhập lực lượng của Hoàng thân Meissen.
Trong khi đó, Kohlhaas, do hoàn cảnh kỳ lạ trên cõi đời này, bây giờ thấy mình cầm đầu một trăm lẻ chín thuộc hạ; và do tình cờ tìm thấy một kho vũ khí khác ở Jassen, ông bây giờ có thể trang bị đầy đủ phương tiện cho thuộc hạ của mình. Được báo việc có hai lực lượng cùng lúc đang kéo đến, Kohlhaas quyết định đương đầu với hiểm hoạ kép này với tốc độ vũ bão, trước khi hợp lực của hai đạo quân có thể tiêu diệt mình. Cho nên ngay hôm sau, ông tấn công Hoàng thân Meissen bằng một cuộc đột kích ban đêm tại Mühlberg; trong trận chiến, trước nỗi đau buồn lớn lao của ông, Herse đã gục ngã bên cạnh ông lúc bắt đầu giao tranh. Căm hận vì sự mất mát này, Kohlhaas đã gây tổn thất nặng nề cho đối phương trong một trận chiến kéo dài ba giờ, tới mức lực lượng Hoàng thân không thể tập hợp hoặc phân chia lại; đến rạng sáng, vị hoàng thân thương tích đầy người cùng với đội quân rối loạn của mình buộc phải quay về Dresden.
Táo bạo thêm nhờ thắng lợi này, trước khi tin tức kịp lan truyền thì Kohlhaas đã quay sang tập trung vào Tổng đốc Gorgas, và tấn công đạo quân này ở làng Damerow giữa thanh thiên bạch nhật ngoài đồng trống cho tới lúc đêm xuống; dù phải thừa nhận là gánh chịu nhiều tổn thất ghê gớm, Kohlhaas đã khiến đối phương cũng phải thiệt hại không kém. Lẽ ra sáng hôm sau ông đã cùng lực lượng còn lại mở cuộc tấn công mới vào nghĩa trang Damerow, nơi đạo quân của quan tổng đốc cố thủ, nhưng vị quan này đã được gián điệp báo tin thất bại của Hoàng thân Meissen ở Mühlberg, và vì thế nghĩ rằng cần phải rút quân về Wittenberg chờ thời cơ thuận lợi hơn.
Năm ngày sau khi đánh tan tác cả hai đối phương, Kohlhaas kéo quân về ngoại thành Leipzig, và phóng hoả cùng lúc ở ba nơi. Trong tuyên cáo đưa ra vào dịp này, ông tự xưng là “thay mặt Tổng lãnh thiên thần Michael, dùng binh lửa trừng phạt tất cả những ai đứng về phía tên lãnh chúa, trả thù cho sự độc ác đang nhấn chìm thế gian.” Cùng lúc đó, đứng trên Lâu đài Lützen mà ông đã tấn công chiếm giữ, Kohlhaas kêu gọi dân chúng cùng hợp lực để xây dựng một thế giới tôn ti trật tự hơn; và tuyên cáo này ông đã ký một cách ngông cuồng là “được ban hành từ thành Lützen, trung tâm của chính phủ thế giới lâm thời.”
May thay cho dân chúng Leipzig, nhờ một trận mưa dai dẳng trời cho, ngọn lửa không thể lan rộng, và nhờ các biện pháp dập lửa cấp kỳ, chỉ có mấy cửa hàng xung quanh Pleissenburg bốc cháy. Nhưng mặt khác, sự hiện diện của kẻ đốt phá ác ôn này ở ngay các cổng thành và việc y khăng khăng cho rằng Lãnh chúa Tronka đang ở trong thành phố này khiến cho dân chúng hãi hùng khôn kể. Và do đạo quân 180 kỵ binh được phái đi diệt Kohlhaas đã thua tan tác quay về cho nên các nhà chức trách, không muốn đánh liều với tài sản của thành phố, đành phải chốt chặt mọi cổng thành và cắt cử dân chúng ngày đêm theo dõi động tĩnh bên ngoài. Chính quyền thành phố đã dán cáo thị ở các làng mạc ngoại thành cam đoan là Lãnh chúa Tronka không có mặt ở Pleissenburg nhưng cũng vô ích; người lái ngựa, trong những tuyên cáo của mình, vẫn quả quyết tên lãnh chúa đang ở đây và nói rõ rằng ngay cả khi không phải như vậy thì ông, Kohlhaas, vẫn cứ gây chiến như thường, cho đến khi nào biết đích xác kẻ thù kia đang ở đâu.
Được sứ giả bẩm báo về tình hình nghiệt ngã của thành phố Leipzig, Đức Tuyển hầu nói ngài đã tập hợp một đạo quân hai nghìn người và sẽ thân chinh chỉ huy đi bắt Kohlhaas. Tổng đốc Otto von Gorgas bị ngài khiển trách nặng nề vì cái kế sách mông muội mà vị quan này đã áp dụng để lừa kẻ đốt phá kia ra khỏi vùng Wittenberg; và không bút mực nào tả xiết sự rối loạn của toàn bộ lãnh thổ Saxony và đặc biệt là ở kinh thành khi hay tin một cáo thị gửi cho Kohlhaas đã được dán ở các ngôi làng bên ngoài Leipzig, xác nhận là “Lãnh chúa Wenzel von Tronka đang ở Dreseen cùng hai người anh em họ Hinz và Kunz.”
Trong tình hình đó, Tiến sĩ Martin Luther phải tự mình đứng ra gánh vác; bằng ngôn từ có sức thuyết phục, và bằng vị thế đầy uy tín của mình trên thế giới, ông kêu gọi Kohlhaas quay lại đường ngay nẻo chánh, và phó thác niềm tin vào chút lương tri còn lại trong lòng kẻ đốt phá kia, ông đã cho công bố bức thư sau đây gửi Kohlhaas, niêm yết ở các thị thành và làng mạc trên khắp lãnh thổ của Đức Tuyển hầu:
Kohlhaas, ngươi xưng là được trao sứ mệnh cầm thanh gươm công lý, ngươi là kẻ nô lệ điên rồ của sự tức giận mù quáng, làm những điều hoàn toàn bất công, sao ngươi lại dám nhận xằng như thế? Do Chúa công của ngươi đã không ban cho ngươi lẽ công bằng trong một cuộc tranh chấp về một chuyện vô giá trị, ngươi làm loạn, kẻ tuyệt vọng kia, ngươi gieo hoạ binh lửa, và như một con sói sa mạc phá vỡ sự bình yên trên xứ sở mà ông ta bảo vệ.
Ngươi, kẻ lừa mị mọi người với những lời tuyên bố đầy gian dối và độc ác: ngươi nghĩ rằng, kẻ tội lỗi như ngươi, khi đến ngày phán xét, sẽ đánh lừa được Đức Chúa Trời, Đấng thấu triệt từng ngóc ngách của mọi linh hồn, sao? Làm thế nào ngươi, kẻ có trái tim tàn bạo chỉ muốn trả thù man rợ kia, lại có thể tuyên bố đã bị từ khước các quyền chính đáng của ngươi trong khi ngươi đã hoàn toàn từ bỏ việc tìm kiếm công lý, chỉ sau một thất bại đơn giản của lần thử đầu tiên? Chẳng lẽ chính quyền tối cao đáng tôn kính của ngươi chỉ toàn là một lũ quan quyền và thư lại thối tha, những kẻ đã ém nhẹm đơn từ, hay đã mưu đồ phủ nhận một phán quyết không thể tránh khỏi sao?
Ta phải nói với ngươi, kẻ nghịch đạo kia, rằng các nhà chức trách tối cao không hay biết gì về việc này – Phải, Chúa công mà ngươi đang chống lại chẳng biết gì hơn ngoài tên của ngươi, cho nên đến ngày nào đó ngươi đứng trước ngôi Đấng Toàn năng và ta thán về ông ta, thì ông ta, với vẻ mặt điềm tĩnh, sẽ nói: Lạy Chúa, con đã không làm điều gì sai trái với người này, ngay cả sự tồn tại của y con cũng không hề hay biết.
Hãy nhớ rằng thanh kiếm mà ngươi vung lên là thanh kiếm cướp của giết người, đứng trước Chúa ngươi là một kẻ phiến loạn chứ không phải là một người chiến đấu vì chính nghĩa, và kết cục của người trên trần thế này chỉ là bánh xe nhục hình và giá treo cổ, và ở kiếp sau, chỉ là địa ngục đoạ đày dành cho lũ tội phạm và những kẻ không có Chúa.
Wittenberg, v.v.
Martin Luther
Khi Sternbald và Waldmann thất kinh phát hiện ra cáo thị của Luther đã được dán ở cổng vào lâu đài Lützen trong đêm thì ở trong thành, Kohlhaas trong tâm trạng buồn bực chỉ luôn nghĩ mưu tính kế đốt cháy Leipzig ra tro – bởi vì ông không tin vào tờ thông cáo được dán ở các làng mạc nói rằng Lãnh chúa Wenzel đang ở Dresden do không có kèm theo chữ ký nào, và chắc chắn là không phải của hội đồng thành phố như ông đã đòi hỏi. Suốt mấy ngày liền, hai mã phu thân tín của người lái ngựa vẫn tiếp tục hy vọng hão huyền rằng Kohlhaas, người mà họ không muốn bẩm báo việc này, sẽ tự nhìn thấy cáo thị đó. Buồn rầu và tư lự, Kohlhaas đôi lúc cũng bước ra ngoài vào buổi tối, nhưng chỉ để đưa ra những mệnh lệnh cộc lốc, và chẳng hề thấy gì cả. Cho nên đến một buổi sáng, khi ông ra lệnh treo cổ một vài thuộc hạ bị bắt quả tang đang cướp bóc trái ý ông trong khu vực này, hai mã phu quyết định phải làm cho ông chú ý đến bức thư của Luther.
Với kiểu cách phô trương mà ông đã bày ra kể từ khi ban bố tuyên cáo vừa qua – một người mang một thanh trường kiếm đặt trên chiếc gối bọc da dê đỏ có tua vàng đi trước, mười hai hộ vệ cầm đuốc theo sau – Kohlhaas đang từ nơi hành quyết trở về và mọi người e dè dạt ra hai bên tránh đường. Ngay lúc đó, hai mã phu, gươm cặp dưới nách, bèn đi vòng quanh chiếc cột nơi dán bản cáo thị để thu hút sự chú ý của ông. Khi Kohlhaas đi qua dưới cổng vòm, hai tay chắp sau lưng, chìm trong suy nghĩ, ông mở mắt ra và giật mình; và do các cận vệ đã kính cẩn tránh đường, nên ông vừa ngạc nhiên nhìn họ vừa bước nhanh đến bên chiếc cột. Ai mà mô tả được những gì đang diễn trong lòng ông khi người lái ngựa đọc bức thư buộc tội ông là bất công, và được ký bởi cái tên yêu quý và đáng kính nhất mà ông biết, cái tên Martin Luther!
Đỏ mặt tía tai, ông cởi mũ sắt ra và đọc kỹ hai lần tờ giấy trước mặt; rồi, có vẻ hoang mang, ông quay lại giữa đám thuộc hạ của mình, như thể định nói gì với họ nhưng lại thôi. Tháo tờ giấy trên tường xuống, ông đọc lần thứ ba, và gọi: “Waldmann, thắng yên cương cho ngựa của ta!” rồi: “Sternbald, theo ta vào lâu đài!” và ông biến mất. Đã gieo rắc bao kinh hoàng như thế mà chỉ cần mấy lời của bậc thánh nhân ấy là đủ khiến ông đột nhiên thối chí. Ông cải trang thành một tá điền vùng Thuring; bảo Sternbald rằng có một số công việc trọng đại buộc ông phải đến Wittenberg; và trước sự có mặt của những phụ tá thân tín nhất ông giao phó cho anh ta chỉ huy đội quân còn lại tại Lützen. Và với lời trấn an rằng ông sẽ quay về sau ba ngày, và từ giờ tới đó không có lý do gì sẽ xảy ra bất kỳ một cuộc tấn công nào, Kohlhaas lên đường đi Wittenberg.
Ông giả danh thuê trọ ở một lữ quán, rồi ngay khi trời tối liền khoác một chiếc áo choàng, mang theo cặp súng ngắn đã mua được ở Tronkenburg, ông bước vào thư phòng của Luther. Luther đang ngồi ở bàn làm việc với sách vở và giấy tờ, nhìn thấy người lạ – kẻ mặt mày đáng sợ ấy mở cửa phòng rồi chốt chặt lại sau lưng – liền hỏi y là ai và y muốn gì. Và người khách, kính cẩn cầm chiếc mũ trong tay, e dè chờ đợi nỗi kinh hãi mà mình sẽ gây ra, đáp rằng y là Michael Kohlhaas, người lái ngựa, thì Luther liền kêu lên: “Tránh xa ta ra đi!” Và ông ta vừa đứng dậy kéo chuông vừa nói thêm: “Hơi thở của ngươi là dịch bệnh và sự cận kề của ngươi là tai hoạ!”
Kohlhaas, rút súng ra nhưng vẫn đứng yên và nói: “Thưa Đại nhân, nếu ngài đụng vào chuông thì khẩu súng này sẽ biến tôi thành cái xác không hồn dưới chân ngài! Hãy ngồi xuống và nghe tôi nói. Ngài có ở cùng với các thiên thần mà ngài đang chép thánh vịnh ngợi ca thì cũng không an toàn hơn khi ngài ở bên cạnh tôi đâu.”
Ngồi xuống, Luther hỏi: “Ngươi muốn gì?”
Kohlhaas đáp: “Hãy xem lại cách nhìn nhận của ngài về tôi như một kẻ bất công! Ngài đã viết trong cáo thị của mình rằng các nhà chức trách tối cao không hề hay biết gì về vụ kiện của của tôi: được, hãy bảo đảm an toàn đi lại cho tôi và tôi sẽ đến Dresden và trình bày sự việc.”
Nghe vậy, Luther thốt lên, vừa bối rối vừa có phần bình tĩnh lại: “Ngươi ác độc và kinh tởm! Ngươi đi tấn công Lãnh chúa von Tronka để thực thi cái công lý tự xưng của ngươi, và không tìm thấy y ở tư dinh thì ngươi lại đi đốt phá và gây chiến với cả toàn bộ dân chúng đang bảo vệ y, ai cho ngươi cái quyền đó?”
Kohlhaas đáp: “Thưa Đại nhân, không có ai cả, và sau này cũng thế! Một số tin báo mà tôi nghe được từ Dresden đã khiến tôi nhầm lẫn. Cuộc chiến mà tôi đang chống lại đám đông thiên hạ chỉ có tội nếu như tôi không bị loại trừ khỏi xã hội này, như ngài đã cam đoan với tôi.”
“Loại trừ?” Luther kêu lên, trố mắt nhìn. “Suy nghĩ điên khùng! Ai đã loại trừ ngươi ra khỏi xã hội mà ngươi đang sống? Suốt toàn bộ lịch sử công quốc này, thực sự là có trường hợp nào loại trừ bất kỳ ai, dù là người như thế nào, ra khỏi xã hội không?”
Siết chặt nắm đấm, Kohlhaas trả lời: “Loại trừ là cách tôi gọi một người không được pháp luật bảo vệ. Tôi cần một sự bảo vệ như thế để được yên ổn làm ăn; phải, đó là lý do duy nhất mà tôi, cùng với thành quả công việc của mình, tìm nơi nương tựa trong một xã hội. Và bất cứ ai khước từ không cho tôi sự bảo vệ đó thì họ đã coi tôi như loài thú hoang man rợ; và ngài không thể phủ nhận rằng chính kẻ đó đã đặt vào tay tôi cây gậy để tự bảo vệ mình.”
“Ai đã khước từ không cho ngươi dược pháp luật bảo vệ ?” Luther kêu lên. “Chẳng phải ta đã viết rằng Đức Tuyển hầu không hề hay biết gì về vụ kiện của ngươi sao? Nếu các cận thần, quan lại của ngài ém nhẹm điều gì, hoặc làm những điều gây nhơ nhốc thanh danh của ngài mà ngài không biết, thì chỉ có Chúa mới có quyền buộc Đức Tuyển hầu phải chịu trách nhiệm cho việc lựa chọn quần thần, còn ngươi, kẻ vô đạo kinh tởm kia, có quyền gì mà phán xét ngài vì sự việc đó?”
“Hay lắm,” Kohlhaas nói, “nếu Đức Tuyển hầu không loại trừ tôi thì tôi sẽ quay trở lại với cái xã hội mà ông ta bảo vệ. Tôi lặp lại, hãy đảm bảo cho tôi được an toàn đi đến Dresden, và tôi sẽ giải tán đội quân mà tôi đã tập hợp ở thành Lützen, và lần này tôi sẽ trình lên pháp đình tối cao đơn kiện đã bị bác trước đó.”
Vẻ mặt không hài lòng, Luther gạt đống giấy tờ trên bàn sang một bên và không nói gì. Thái độ ngoan cố của kẻ lạ mặt này khiến ông ta khó chịu; rồi nghĩ đến tối hậu thư mà Kohlhaas đã thảo ra ở Kohlhaasenbrück và gửi cho tay lãnh chúa, Luther hỏi người lái ngựa mong đợi gì ở pháp đình Dresden. Kohlhaas đáp: “Trừng phạt tên lãnh chúa theo đúng pháp luật; trả lại những con ngựa cho tôi đúng như tình trạng ban đầu của chúng; và một số khoản bồi thường vì đã gây hại cho chúng tôi, cho bản thân tôi và mã phu Herse đã chết trong trận chiến ở Mühlberg.”
“Bồi thường!” Luther kêu lên. “Còn ngươi đã vay những khoản tiền lên tới hàng ngàn của những người Do Thái và Ki-tô hữu để tiến hành cuộc trả thù điên cuồng của ngươi. Chẳng lẽ ngươi cũng sẽ ghi những khoản đó vào hóa đơn đòi thanh toán sao?”
“Có Chúa chứng giám!” Kohlhaas đáp. “Tôi không đòi trả lại nhà cửa, đất đai và các tiện nghi, cũng không đòi trả chi phí cho đám tang của vợ tôi. Bà mẹ già của Herse sẽ trình toà một bảng tính toán chi phí thuốc men cho anh ta, và liệt kê những món tư trang anh ta đã bị mất ở Tronkenburg; còn về khoản thiệt hại mà tôi phải chịu do không bán được hai con ngựa của tôi thì hãy để chính quyền cho người chuyên môn đánh giá.”
Luther thốt lên: “Một kẻ điên rồ, khó hiểu và kinh khủng!” Rồi ông ta nhìn Kohlhaas. “Sau khi ngươi đã dấy loạn trả thù tay lãnh chúa kia bằng những cách đẫm máu nhất có thể nghĩ ra, điều gì khiến ngươi vẫn phải đòi bằng được một bản án dành cho kẻ đó mà mức độ trừng phạt nếu áp dụng lại quá nhẹ như vậy chứ?”
Một giọt lệ lăn dài trên má, Kohlhaas trả lời: “Thưa Đại nhân! Tôi đã phải trả giá bằng tính mạng vợ tôi; mong muốn của Kohlhaas này là cho thiên hạ thấy rằng cô ta không phải chết vì một điều bất công. Ngài hãy làm như tôi nói trong việc này, và để cho tòa án phán xét; còn mọi việc khác, ngài muốn sao tôi cũng bằng lòng.”
Luther nói: “Nghe đây, nếu sự việc đúng như đã mô tả thì những điều ngươi đòi hỏi là hoàn toàn chính đáng; và nếu như ngươi không ngang ngược trả thù, chịu chờ đợi phán quyết của Chúa công, thì ta không mảy may nghi ngờ rằng những yêu cầu của ngươi, từng điều một, sẽ được chấp thuận. Nhưng xem xét mọi bề, nếu ngươi tha thứ cho tay lãnh chúa, hãy vì Đấng Cứu Rỗi mà nhận lại mấy con ngựa, cho dù chúng gầy ốm và kiệt quệ, lên yên và cưỡi chúng về chuồng ở Kohlhaasenbrück của ngươi để nuôi cho chúng mạnh khỏe trở lại thì há chẳng tốt hơn sao?”
Kohlhaas đáp trong lúc đi tới bên cửa sổ: “Có thể ngài nói đúng, mà cũng có thể không. Nếu tôi đã biết trước rằng tôi sẽ phải nuôi cho mấy con ngựa hồi phục bằng chính máu của người vợ yêu quý thì chắc tôi đã làm như ngài nói, thưa Đại nhân, và không một chút miễn cưỡng! Nhưng vì việc này giờ đây đã khiến tôi phải trả giá quá đắt, nên có lẽ đối với tôi, mọi sự không thể dừng lại được nữa: giờ hãy để cho toà phán quyết là tôi đúng, và bắt tên lãnh chúa phải nuôi ngựa cho tôi.”
Quay lại với mới giấy tờ trên bàn, Luther suy nghĩ đủ điều rồi nói ông ta đồng ý giúp người lái ngựa trình bày sự việc với Đức Tuyển hầu. Cho đến lúc đó, ông ta đề nghị Kohlhaas ở yên trong thành Lützen; nếu Đức Tuyển hầu chấp thuận cho Kohlhaas được quyền an toàn đi lại thì sẽ có yết thị công khai.
“Còn Đức Tuyển hầu có khoan dung cho ngươi hay không thì ta không biết,” Luther nói tiếp khi Kohlhaas cúi xuống hôn tay ông, “vì ta được tin là ngài đã tập hợp một đạo quân riêng, và sẽ phái đến thành Lützen bắt ngươi đó. Dù vậy, như đã nói, phần ta thì ta đã cố sức làm rồi.” Vừa nói ông ta vừa đứng dậy, chuẩn bị tiễn người lái ngựa; Kohlhaas nói rằng chỉ cần Luther nói cho một tiếng là ông thấy an tâm rồi. Ngay lúc Luther giơ tay chào từ biệt thì người lái ngựa đột nhiên quỳ xuống trước mặt ông ta và nói rằng còn một điều mong muốn nữa. Kohlhaas có thói quen đi lễ, và vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, ông đã không đi nhà thờ vì chuyện gây chiến; liệu Luther có sẵn lòng nghe ông xưng tội, ngay tại chỗ, và sẵn lòng ban phép Thánh thể cho ông không?
Luther vừa suy nghĩ nhanh, vừa nhìn người lái ngựa một cách nghiêm khắc, rồi nói: “Được, Kohlhaas, ta sẵn lòng. Nhưng hãy nhớ rằng, Đức Chúa mà ngươi mong muốn được nhận thánh thể đã tha tội cho kẻ thù của Người. Ngươi có chịu làm giống như vậy không?” Luther nói tiếp trong lúc người lái ngựa nhìn ông ta với vẻ ăn năn, “chịu tha tội cho tay lãnh chúa đã làm hại ngươi, chịu đi tới Tronkenburg nhận ngựa cưỡi về Kohlhaasenbrück nuôi cho chúng khoẻ mạnh lại không?”
“Thưa Đại nhân…” Kohlhaas đỏ bừng mặt, vừa siết chặt nắm đấm.
“Sao…?”
“… Chúa đâu có tha thứ cho mọi kẻ thù của Người. Tôi sẽ tha thứ cho Đức Tuyển hầu, hai vương gia là Hinz và Kunz, và bất cứ ai khác có thể đã xúc phạm tôi trong việc này: nhưng nếu được, phải bắt tên lãnh chúa nuôi cho ngựa của tôi khỏe lại.”
Nghe thế, Luther với vẻ mặt không hài lòng đã quay lưng lại với vị khách và rung chuông gọi gia nhân. Một người hầu mang theo một ngọn nến đi vào phòng chờ bên ngoài, Kohlhaas đứng dậy với vẻ có lỗi, tay gạt lệ; do người hầu không vào thư phòng này được vì cửa đã chốt, và Luther lại ngồi vào bàn với mớ giấy bút của mình, Kohlhaas phải tự mở cửa cho người hầu kia vào. Luther đưa mắt về phía vị khách và bảo người hầu: “Soi đường tiễn khách!” Lúc đó người hầu kia mới ngạc nhiên nhận ra sự hiện diện của một người lạ, anh ta lấy chiếc chìa khóa treo trên tường xuống, và đứng ở ngưỡng cửa đợi khách đi theo mình.
Vò chiếc mũ trong tay, Kohlhaas nói: “Thưa ngài, chẳng lẽ không có cách nào để ngài ban phước cho tôi được thoả nguyện sao?” Luther trả lời cộc lốc: “Từ Đấng Cứu Rỗi thì không; từ Đức Tuyển hầu thì, như ta đã nói với ngươi, ta sẽ cố gắng.” Và dứt lời, ông ta ra hiệu cho người hầu làm theo lệnh, không chần chờ nữa. Với vẻ mặt đau khổ, Kohlhaas khoanh tay trước ngực, đi theo người hầu cầm nến soi đường cho ông xuống cầu thang, và biến mất.
Sáng hôm sau, Luther thảo một lá thư gửi Đức Tuyển hầu Saxony; trong thư, sau khi gay gắt lên án việc hai người nhà Tronka là Hinz và Kunz, quan nội thị và quan tửu chính, can thiệp với toà án – ai cũng biết hai người này đã ém nhẹm vụ kiện – với sự thẳng thắn vốn có, ông ta nói với Chúa công rằng trong tình thế khó chịu như vậy, không có cách nào khác ngoài việc chấp nhận đề nghị của người lái ngựa, ân xá cho y, và cho phép vụ kiện của y được xét xử. Công luận đang đứng về phía người lái ngựa, Luther viết, đáng sợ tới mức ngay cả khi thành phố Wittenberg bị thiêu rụi ba lần, dân chúng vẫn đồng lòng ủng hộ y; và vì thế, nếu yêu cầu của y bị từ chối thì chắc chắn người lái ngựa, với những lời buộc tội đầy thù hận, sẽ công bố việc này cho mọi người biết, và dân chúng có thể dễ dàng bị lừa dối tới mức chính phủ cũng sẽ bất lực không thể làm gì chống lại y được. Cuối thư, Luther viết rằng trong trường hợp bất thường này, phải gạt bỏ lệnh cấm điều đình với một thần dân đã dấy loạn chống lại công quốc; rằng kẻ nói trên, do bị đối xử tệ bạc nên theo một nghĩa nào đó, y đã bị chính xã hội loại trừ; và nói tóm lại, để thoát khỏi tình thế khó khăn này, tốt nhất là nên xem người lái ngựa này như một thế lực ngoại bang xâm lược – điều này cũng không sai vì y không phải là thần dân của Saxony – thay vì là kẻ cầm đầu một cuộc nổi loạn chống triều đình.
Đức Tuyển hầu nhận được thư này đúng lúc trong lâu đài có mặt đầy đủ những người bạn thời niên thiếu và là người tín cẩn của gia chủ: Hoàng thân Christian von Meissen, nguyên soái (và là chú của Hoàng thân Friedrich von Meissen, người vừa qua đã bị đánh bại tại Mühlberg và vẫn còn thương tích trầm trọng); Bá tước Wrede, Đại chưởng ấn; Bá tước Kallheim, Thừa tướng; và hai cận thần Hinz và Kunz von Tronka, một người là quan nội thị và người kia là quan tửu chính.
Quan nội thị Kunz là người giữ vai trò Thư ký riêng, chịu trách nhiệm về thư từ ngoại giao của Đức Tuyển hầu, và có quyền sử dụng tên và ấn triện của ngài. Kunz lên tiếng trước và sau khi giải thích dông dài rằng ông ta không bao giờ cố ý bác đơn của người lái ngựa kiện người em bà con của mình là Lãnh chúa Wenzel, nếu như ông ta đã không bị lừa dối bởi những thông tin sai lệch, vì thế ông ta đã coi vụ kiện đó chỉ là một trò mè nheo hoàn toàn vô căn cứ. Rồi cuối cùng ông ta chuyển sang nói về tình hình hiện tại. Ông ta nói rằng, cho dù ông thừa nhận mình có sai lầm trong việc kiện tụng này, thì cả luật lệ của thần thánh lẫn con người đều không chấp nhận việc người lái ngựa tự cho phép mình trả thù tàn bạo như thế. Ông ta nói đến sự vinh quang dành cho tên Kohlhaas vô đạo kia khi y được triều đình đàm phán như một thế lực thù địch chính đáng; và chính điều đó sẽ là nỗi ô nhục làm hoen ố danh giá thiêng liêng của Đức Tuyển hầu, một điều mà ông ta không thể nào chịu đựng nổi, tới mức – Kunz nói hết sức hùng hồn – ông thà cắn răng đáp ứng những đòi hỏi của tên phiến loạn điên khùng kia, và bắt Lãnh chúa Wenzel, người em họ, về Kohlhaasenbrück nuôi ngựa, còn hơn là chấp nhận đề nghị của Tiến sĩ Luther.
Bá tước Wrede, Đại chưởng ấn, hơi quay người về phía Kunz, tỏ ý tiếc rằng quan nội thị ngay từ đầu đã không thể hiện những tình cảm như mới vừa bộc lộ trong việc bảo vệ thanh danh cho Chúa công. Rồi Bá tước Wrede quay sang Đức Tuyển hầu và nói cho biết ông ta không muốn sử dụng quyền lực của triều đình để thi hành một biện pháp rõ ràng là bất công. Với ánh mắt đầy ngụ ý, vị đại pháp quan nhắc đến sự nổi tiếng của người lái ngựa trên khắp đất nước, và cho rằng chuỗi dài tội ác mà y đang gieo rắc có nguy cơ sẽ kéo dài bất tận; và ông ta cho rằng chỉ có một hành động đúng lẽ công bằng – trong trường hợp này là chỉnh đốn lập tức và triệt để những biện pháp sai trái đã thi hành – thì mới có khả năng chặn đứng hiểm hoạ và giúp cho triều đình an toàn thoát khỏi tình thế hết sức bất lợi này.
Khi được Đức Tuyển hầu hỏi ý, Hoàng thân Meissen vừa nói vừa kính cẩn hướng về phía Đại chưởng ấn. Theo hoàng thân, dù ông ta hết sức tôn trọng cách nghĩ của Bá tước Wrede nhưng trong việc giúp Kohlhaas đòi lại công lý thì vị đại thần này đã hy sinh những kỳ vọng chính đáng của hai thành phố Wittenberg và Leipzig, cũng như toàn bộ những vùng đất bị đốt phá, là được bồi thường, hoặc ít nhất là phải trừng trị đích đáng thủ phạm. Vì kẻ này mà trật tự của xã hội, đau buồn thay, đã đảo lộn đến mức khó có thể khôi phục lại bằng những nguyên tắc pháp luật. Do đó, Hoàng thân Meissen đồng tình với quan nội thị Kunz về việc nên sử dụng các kế sách truyền thống trong những trường hợp như thế này: tập hợp một đội quân hùng mạnh và, tùy theo tình hình, bắt giữ hoặc tiêu diệt người lái ngựa ở Lützen.
Vừa mang ghế vào phòng cho Hoàng thân Meissen và Đức Tuyển hầu, quan nội thị Kunz vừa nói rằng ông ta rất mừng vì một người chính trực và sáng suốt như Hoàng thân đã đồng tình với mình về cách tốt nhất để giải chuyện phiền toái này. Vị hoàng thân, nắm lấy lưng ghế chứ không ngồi xuống, nhìn Kunz và quả quyết rằng quan nội thị không có lý do gì để vội mừng, vì để giải quyết việc này thì phải có lệnh bắt giữ quan nội thị đưa ra toà xử tội mạo nhận danh hiệu và vương quyền của Đức Tuyển hầu. Bởi nếu phải vạch trần mọi sự trước công lý, và sau một loạt tội lỗi tày đình kéo dài bất tận nhưng lại không do sự việc sai trái ban đầu gây ra, thì phải bắt Kunz chịu trọng tội trước tiên thì triều đình sau đó mới có thể ra tay tiêu diệt người lái ngựa, kẻ mà ai cũng thấy rằng có động cơ hoàn toàn chính đáng, và bị chính những người đại diện cho công quốc này buộc phải dùng tới đao kiếm.
Đức Tuyển hầu mặt đỏ bừng, quay lưng đi tới cửa sổ bên kia phòng trong lúc Kunz lo sợ nhìn theo. Sau một hồi im lặng lúng túng không ai nói gì, Bá tước Kallheim lên tiếng. Ông ta cho rằng việc kết tội Kunz cũng không thể giúp triều đình thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn đã sa vào. Mà đã kết tội Kunz thì cũng phải kết tội luôn Friedrich, cháu trai của Hoàng thân von Meissen, mới hợp lý, bởi vì người này cũng vậy, trong cuộc hành quân cấp kỳ truy diệt Kohlhaas, đã có hành động vượt quá thẩm quyền; cho nên nếu đòi hỏi phải xét xử hết bao nhiêu người đã gây ra tình thế khó khăn hiện nay thì chắc chắn trong số những kẻ được nêu tên phải có Friedrich và người này phải chịu tội vì những sự việc đáng tiếc ở Mühlberg.
Khi Đức Tuyển hầu quay lại chỗ cũ với sắc mặt khó hiểu, quan tửu chính Hinz von Tronka lúc này mới lên tiếng. Hinz nói rằng ông ta không hiểu làm sao mà những bậc thông tuệ như những người đang có mặt ở đây lại không nghĩ ra được kế sách tốt nhất. Theo Hinz hiểu thì người lái ngựa đã hứa sẽ giải tán lực lượng đã cùng y phá hoại xứ sở này để đổi lấy lời hứa bảo đảm an toàn đi lại cho y tới Dresden và mở lại cuộc điều tra về vụ kiện đó. Điều này hoàn toàn không phải là người lái ngựa được ân xá cho chiến dịch báo thù ác độc của y; đây là hai khái niệm pháp lý khác nhau mà cả Tiến sĩ Luther và Hội đồng đại thần này dường như đều nhầm lẫn. “Nếu tòa án tại Dresden đã có phán quyết về những con ngựa, bất kể theo hướng nào,” Hinz nói tiếp, ngón tay gãi vào cạnh mũi, “thì không có điều gì ngăn cản được việc bắt giữ Kohlhaas vì tội cướp phá và bạo loạn: một quyết định khôn khéo dung hoà được cái hay của cả hai quan điểm đối lập, và chắc chắn sẽ được thiên hạ và hậu thế tán dương.”
Trước lập luận này, cả Hoàng thân Meissen lẫn Đại chưởng ấn Wrede chỉ nhìn Hinz mà không nói gì, thấy cuộc họp dường như đã kết thúc, Đức Tuyển hầu bèn nói rằng ngài sẽ cân nhắc hết các đường hướng hành động đã được trình bày cho đến phiên họp Hội đồng tiếp theo.
Có vẻ như ý tưởng của Hoàng thân đòi xử tội quan nội thị Kunz đã khiến vị tuyển hầu hay cả nể thân tình này từ bỏ ý định xuất quân tiêu diệt Kohlhaas vốn đã được chuẩn bị sẵn sàng. Ngài giữ Bá tước Wrede, ở lại, quan điểm của vị đại thần này có lẽ là thiết thực nhất. Bá tước Wrede trình cho Đức Tuyển hầu xem các tài liệu cho thấy binh lực của người lái ngựa bây giờ dường như đã tăng lên đến bốn trăm người có vũ trang; phải, và xét đến sự bất mãn chung ở nơi nơi về những việc lộng hành của quan nội thị Kunz, thì số quân này có thể nhanh chóng tăng gấp đôi, gấp ba. Đức Tuyển hầu bèn quyết định ngay, không chần chờ thêm nữa, chấp thuận lời đề nghị của Tiến sĩ Luther. Ông giao cho Bá tước Wrede phụ trách toàn bộ vụ Kohlhaas, và chỉ mấy ngày sau đã thấy một cáo thị với nội dung đại ý như sau:
Đức Tuyển hầu tôn kính của công quốc Saxony, xét đến bức thư can thiệp của Tiến sĩ Martin Luther, đã chiếu cố gia ân cho Michael Kohlhaas, người lái ngựa và là thần dân của công quốc Brandenburg, được bảo đảm an toàn đi tới Dresden để tái xét vụ kiện của y, với điều kiện là trong vòng ba ngày kể từ khi đọc được cáo thị này y phải giải tán lực lượng, nộp hết vũ khí. Trong trường hợp, dù rất khó xảy ra, vụ kiện của y về những con ngựa bị tòa án bác bỏ, y sẽ phải nhận nghiêm hình tối đa của pháp luật vì tội ngang ngược tự mình đi đòi công lý bằng vũ lực. Trong trường hợp ngược lại, y cùng tất cả thuộc hạ sẽ được tha tội, và một lệnh ân xá hoàn toàn sẽ miễn thứ cho y mọi hành vi dấy loạn và phá hoại đã thực hiện ở Saxony.
Cáo thị này được dán ở mọi quảng trường công cộng trên khắp lãnh thổ Saxony và Tiến sĩ Luther đã gửi cho Kohlhaas một bản. Dù bị ràng buộc theo những điều kiện đã nêu, Kohlhaas vẫn lập tức giải tán lực lượng, và tiễn những người đi theo ông bằng những món quà, lời cảm tạ, và những cảnh báo chân thành. Ông nộp hết những gì mình có – tiền bạc, vũ khí, và phương tiện – cho tòa án ở Lützen, để sung công. Và khi đã sai Waldmann đi gặp người láng giềng của ông ở Kohlhaasenbrück trao các thư từ liên quan đến khả năng mua lại trang trại đã bán, và sai Sternbald đi Schwerin đón các con ông về đây để gia đình đoàn tụ, ông liền rời thành Lützen, âm thầm đi tới Drresden, với chút tài sản ít ỏi còn lại dưới dạng giấy tờ và văn tự.
Trời mới rạng sáng, và cả thành phố còn say ngủ khi Kohlhaas gõ cửa ngôi nhà nhỏ ở Pirna, ngoại thành Dresden, mà nhờ sự quan tâm chu đáo của viên quản điền láng giềng nên vẫn thuộc quyền sở hữu của ông. Thomas, lão gia nhân trông coi cơ ngơi này cho Kohlhaas, hoang mang và lo lắng mở cửa cho chủ bước vào. Ông bảo già Thomas phải tới công quyền trình báo với Hoàng thân Meissen rằng ông, Kohlhaas, người lái ngựa, đã đến nơi.
Hay tin, Hoàng thân Meissen liền nghĩ rằng cũng đáng để cho ông ta tìm hiểu rõ về những gì liên quan tới kẻ này. Ông ta cùng một đội kỵ binh và cận vệ đi ngựa đến đó thì thấy dân chúng đã tụ tập đông vô kể trên những con đường quanh ngôi nhà của Kohlhaas. Tin tức về sự xuất hiện của thiên thần hủy diệt, người truy đuổi những kẻ áp bức dân chúng bằng lửa và gươm, đã khiến toàn bộ Dresden, nội thành lẫn ngoại ô, xôn xao. Những người trong nhà buộc phải chốt chặt cửa để ngăn cản đám đông hiếu kỳ nhòm ngó và lũ trẻ nhỏ trèo lên cửa sổ cố nhìn thấy bóng dáng kẻ đốt phá ác ôn đang dùng bữa sáng.
Nhờ tùy tùng mở đường, Hoàng thân vào được trong nhà là đi ngay đến phòng Kohlhaas, ông ta hỏi người đang cởi trần, đứng cạnh chiếc bàn: “Có phải ngươi là Kohlhaas, người lái ngựa, không?” Kohlhaas lấy từ thắt lưng ra một chiếc ví có chứa đủ thứ giấy tờ chứng minh và kính cẩn trao cho Hoàng thân, trả lời “Phải!” và nói thêm rằng sau khi đã giải tán lực lượng đúng như yêu cầu, ông đã nhờ sự bảo đảm an toàn đi lại của Đức Tuyển hầu để đến Dresden theo đuổi vụ kiện Lãnh chúa Wenzel von Tronka về mấy con ngựa của mình.
Vừa nhìn người đối diện từ đầu đến chân, Hoàng thân vừa xem qua các giấy tờ của Kohlhaas, nghe người lái ngựa giải thích về những văn bản do tòa án ở Lützen đã cấp, xác nhận việc sung công số một số tài sản giá trị nào đó. Và sau một hồi lâu gặng hỏi để tìm hiểu tính cách của người lái ngựa, về con cái, tài sản, và dự định sinh sống trong tương lai của y, Hoàng thân xác định rằng hoàn toàn không có lý do gì để lo ngại về kẻ đối diện nữa. Ông ta trả lại các giấy tờ và nói rằng không điều gì có thể cản trở việc tiến hành vụ kiện, và Kohlhaas nên đến gặp chính Đại chưởng ấn, Bá tước Wrede, để thực hiện các bước tiếp theo.
“Còn tạm thời trong lúc này,” Hoàng thân vừa nói vừa đi tới cửa sổ và ngạc nhiên nhìn đám đông bên ngoài, “cần có người canh gác trong vài ngày đầu để bảo vệ ngôi nhà này, và bảo vệ bản thân ngươi khi cần phải ra ngoài.” Kohlhaas chán nản cúi đầu không nói gì. “Tùy ngươi thôi,” Hoàng thân rời khỏi cửa sổ, nói tiếp. “Có chuyện gì xảy ra thì đừng trách ai,” rồi ông ta quay ra cửa, định rời khỏi căn nhà này.
Kohlhaas lên tiếng sau một hồi suy nghĩ: “Thưa ngài, tùy ý ngài! Chỉ cần cho hứa với tôi rằng lính gác sẽ rút lui ngay khi nào tôi yêu cầu. Vậy thì tôi sẽ không phản đối gì về biện pháp đó.” Hoàng thân đáp lại rằng điều đó chắc chắn khỏi phải bàn, và sau đó ông ta cắt cử ba người lính có vũ khí sẽ ở lại đây, bảo họ rằng người lái ngựa có quyền tự do đi đâu tùy thích, họ chỉ theo hộ tống để bảo vệ người này thôi. Hoàng thân vẫy tay về phía Kohlhaas và ra đi.
Gần trưa, Kohlhaas đi gặp Bá tước Wrede dưới sự bảo vệ của ba người lính có vũ khí ấy, và theo sau là một đám đông đã được nhà chức trách cảnh báo là không được làm gì gây hại đến ông. Vị đại pháp quan tiếp ông một cách thân thiện ở tiền sảnh, trò chuyện suốt cả hai giờ, và yêu cầu ông kể lại toàn bộ sự tình từ đầu đến cuối, rồi tiến cử một trạng sư danh tiếng rất có uy tín trong thành phố để thảo và nộp đơn kiện. Không chần chờ thêm, Kohlhaas đi ngay đến tư gia trạng sư này. Và sau khi soạn xong đơn kiện, nội dung cũng giống như đơn bị bác lần trước, yêu cầu phải trừng trị tên lãnh chúa theo đúng pháp luật, phục hồi mấy con ngựa cho khoẻ đẹp như trước, và trả tiền bồi thường cho những thiệt hại của bản thân ông cũng như của mã phu Herse đã chết ở Mühlberg – mẹ già của Herse sẽ nhận thay – ông đi về với đám đông hiếu kỳ trố mắt đi theo. Kohlhaas quyết không ra khỏi nhà nữa, trừ khi có công việc cần thiết.
Trong lúc đó, Lãnh chúa Tronka đã được phép rời nhà giam bảo vệ y ở Wittenberg, và khi bàn chân bị sưng tấy vừa lành thì y lại nhận được trát tòa buộc phải đến Dresden giải trình vụ kiện của người lái ngựa Kohlhaas. Y đến tá túc ở tư gia hai người anh họ nhà Tronka, quan nội thị và quan tửu chính, và được chào đón bằng sự tức giận lẫn khinh bỉ cùng cực; họ gọi y là tên khốn nạn tệ hại chỉ gây ô nhục và tai tiếng cho cả dòng họ, dự đoán là y chắc chắn sẽ thua kiện, và bảo y lo liệu mua lại mấy con ngựa để vỗ béo vì chẳng bao lâu nữa y sẽ bị kết tội trước sự chê cười của thiên hạ. Giọng yếu ớt, run rẩy, tay lãnh chúa than rằng y là kẻ khổ sở đáng thương nhất trần đời. Y thề rằng không biết gì về toàn bộ cái trò ác ôn đáng nguyền rủa đã đẩy y vào hoạn nạn này, rằng chính tên quản lý lâu đài và tên quản gia của y phải chịu trách nhiệm hết mọi sự, y không hề hay biết hoặc chấp thuận việc hai tên này đã bắt mấy con ngựa của Kohlhaas làm việc trong vụ mùa đến kiệt sức vì công việc quá căng thẳng ngoài đồng, một phần đồng ruộng này lại là điền sản riêng của hai tên kia. Nói xong, y ngồi xuống, và cầu xin những người bà con đừng chửi bới, nhục mạ nữa, vì như thế là cố tình xô đẩy y rơi trở lại cái tai họa vừa mới thoát ra được.
Ngày hôm sau, hai vương gia nhà Tronka, Hinz và Kunz, họ vốn có thái ấp cách không xa điền trang Tronkenburg đã bị phá hủy, đã thể theo yêu cầu của Lãnh chúa Wenzel, người em họ, bèn viết thư – mà thực ra cũng không còn cách nào khác – cho các quản lý và tá điền của mình để hỏi tin tức về cặp ngựa ô đã thất lạc vào cái ngày tai hoạ ấy và sau đó đã biệt tăm. Nhưng xét đến việc nhà cửa và điền trang bị tàn phá, gần như toàn bộ người cư ngụ đều bị thảm sát, tất cả những gì họ có thể dò hỏi được là có một tên chăn ngựa, bị thúc ép do những cú đánh bằng má kiếm của kẻ đốt phá, đã cứu cặp ngựa ấy thoát khỏi cái chuồng bốc cháy, nhưng tên chăn ngựa này, khi hỏi phải làm gì và phải đưa mấy con ngựa đi đâu lại chỉ nhận được một cú đá của kẻ điên cuồng tàn bạo kia mà thôi.
Trả lời thư dò hỏi, bà già mắc bệnh thống phong trông coi việc nhà cho tay lãnh chúa – bà ta đã chạy trốn đến Meissen – quả quyết rằng sau đêm kinh hoàng đó, thằng nhỏ chăn ngựa, cùng với mấy con ngựa ấy, đã đi sang công quốc Brandenburg. Song mọi nỗ lực tìm kiếm ở Brandenburg đều vô ích, và chuyện này dường như chỉ là ngộ nhận, bởi vì Lãnh chúa Tronka không hề có gia nhân nào quê quán ở Brandenburg, hoặc thậm chí là ở những vùng dọc theo hướng đó. Có mấy người dân Dresden đã ghé Wilsdruf chỉ vài ngày sau khi Tronkenburg bị thiêu rụi, họ nói rằng vào lúc đó có một gã trẻ tuổi đã dắt hai con ngựa đến, và do ngựa đã kiệt sức không thể đi tiếp, gã ta để chúng lại trong chuồng bò của một người chăn cừu đã nhận lời chăm sóc chúng. Xét mọi mặt, rất có thể đây chính là hai con ngựa ô đang được tìm kiếm; nhưng người chăn cừu ở Wilsdruf, theo lời một số người dân địa phương, đã bán chúng cho ai đó không rõ. Rồi lại có một tin thứ ba, không biết từ đâu, cho rằng mấy con ngựa ấy đã về chầu tổ, và vùi xương trong lò mổ thịt ngựa già ở Wilsdruf.
Dễ hiểu rằng hai vương gia Hinz và Kunz rất hoan hỉ trước những diễn biến này, bởi vì như vậy họ bây giờ đã được miễn trách nhiệm phải chứa và nuôi hai con ngựa ấy trong chuồng ngựa riêng của họ, bởi Lãnh chúa Tronka không còn một chuồng ngựa nào của y. Tuy nhiên, dù mong muốn như thế, họ cũng phải xác minh điều này cho chắc chắn. Cho nên Wenzel von Tronka, với tư cách là lãnh chúa, đã gửi thư tới tòa án Wilsdruf với nội dung dò hỏi đúng những điều này, kèm theo mô tả chi tiết về hai con ngựa – theo lời y, chúng đã được giao phó cho y và do rủi ro đã bị thất lạc – để xác định xem chúng hiện đang ở đâu, và yêu cầu người nào đang sở hữu hai con ngựa đó, bất kể là ai, hãy giao chúng về chuồng ngựa của ngài Kunz ở Dresden, và sẽ được bồi hoàn hậu hĩ mọi phí tổn. Thế là chỉ vài ngày sau, người đã mua hai con ngựa từ người chăn cừu ở Wilsdruf xuất hiện, buộc chặt hai con vật gầy guộc, loạng choạng đó đằng sau cỗ xe, đưa chúng đến khu chợ thành phố. Rủi thay cho Lãnh chúa Wenzel và càng rủi hơn cho Kohlhaas lương thiện, kẻ đó chính là người chuyên mua ngựa già để giết thịt ở Döbbeln.
Đang gặp người anh họ làm quan thị chính, Lãnh chúa Wenzel vừa nghe được tin đồn rằng có người đã đến thành phố cùng với hai con ngựa ô sống sót sau trận hỏa hoạn ở Tronkenburg thì hai anh em nhà Tronka ấy, cùng với mấy gia nhân được tập hợp vội vàng, liền đến quảng trường; nếu quả thật đó là những con ngựa của Kohlhaas, họ sẽ nhận lại chúng, bồi hoàn mọi chi phí, và đưa chúng về. Nhưng hai vương gia ngạc nhiên biết bao biết bao khi họ nhìn thấy bu quanh cỗ xe hai bánh buộc những con ngựa đó là một đám đông hiếu kỳ càng lúc càng đông, vừa cười rú vừa í ới bảo nhau rằng những con ngựa đe dọa làm sụp đổ cả quốc gia lại nằm trong tay kẻ chuyên mua ngựa già để giết thịt! Lãnh chúa Wenzel đi vòng ra sau cỗ xe và nhìn hai con vật khốn khổ gần như là sắp chết, và ngượng ngùng nói đây không phải là mấy con ngựa mà y đã lấy của Kohlhaas; nhưng quan nội thị Kunz ném cho y một cái nhìn câm lặng đầy thịnh nộ đến mức nếu ánh mắt ấy là sắt thép thì Wenzel đã nát thây. Rồi Kunz mở phanh áo khoác cho thấy các huy hiệu chức tước đeo trên người, đi tới chỗ tên mua ngựa già để giết thịt và hỏi: “Đây có phải là những con ngựa mà ngươi đã mua lại từ người chăn cừu ở Wilsdruf và là những con ngựa mà Lãnh chúa Wenzel von Tronka đã yêu cầu các tòa án ở nơi đó tìm kiếm không?”
Tên mua ngựa già, tay xách một xô nước cho con ngựa béo tốt kéo xe uống, miệng hỏi: “Ngựa ô phải không?” Gã tháo cái hàm thiếc khỏi mõm ngựa sau khi đặt cái xô xuống rồi nói rằng hai con ngựa buộc sau xe là gã mua lại của người chăn lợn ở Hainichen, còn người đó mua chúng từ đâu, có phải là từ người chăn cừu ở Wilsdruf hay không, thì gã không cách nào biết được. Gã nhặt cái xô lên, kẹp nó giữa trục xe và đầu gối, và nói tiếp rằng một viên tùy phái của tòa án Wilsdruf đã bảo gã phải đưa mấy con ngựa đó đến nhà của gia đình Tronka ở Dresden, nhưng người ta lại chỉ gã tới đây tìm Lãnh chúa Kunz chứ không phải Wenzel. Và dứt lời, gã hắt phần nước thừa trong xô xuống vỉa hè.
Bị bao quanh bởi đám đông chế nhạo, quan thị chính không làm sao khiến cho tên mua ngựa già nhìn thẳng vào ông ta trong lúc gã cứ làm công việc của mình như một cái máy. Quan thị chính Kunz von Tronka xưng tên cùng chức tước, và nói ông ta sẽ nhận hai con ngựa này thay cho người em họ là Lãnh chúa Wenzel; và một người chạy trốn khỏi Tronkenburg khi điền trang này bị thiêu rụi đã đến gặp người chăn cừu ở Wilsdruf cùng với hai con ngựa vốn là tài sản của người lái ngựa Kohlhaas. Ông ta hỏi gã – đang đứng giạng chân kéo quần – rằng gã có tình cờ hay biết gì về chuyện này không? Và liệu có thể người chăn lợn ở Hainichen đã mua hai con ngựa đó từ người chăn cừu ở Wilsdruf, có lẽ là thông qua một trung gian chăng?
Đứng tiểu tiện bên cỗ xe, tên mua ngựa già nói người ta bảo gã hãy đưa mấy con ngựa đó đến Dresden và giao cho nhà Tronka mà lấy tiền. Gã chẳng hiểu gì ráo những chuyện Kunz đang nói; và cho dù trước đây ngựa này là của Peter hay của Paul hay của người chăn cừu ở Wilsdruf trước khi vào tay người chăn lợn ở Hainichen thì đối với gã cũng như nhau, miễn là chúng không bị đánh cắp. Dứt lời, gã vắt cây roi qua vai rồi đi thẳng tới một lữ quán trên quảng trường định ăn sáng, vì gã đang đói.
Quan nội thị không biết phải làm sao với hai con vật mà người chăn lợn ở Hainichen đã bán cho tên mua ngựa nghẽo ở Döbbeln, và nếu chúng thực sự không phải là những con ngựa mà tên ác ôn kia đã cưỡi qua Saxony. Ông ta bảo tay lãnh chúa em họ lên tiếng, nhưng khi Wenzel môi run rẩy, tái mét, bảo rằng cứ mua đại cũng chẳng hại gì, dù có phải là ngựa của Kohlhaas hay không. Quan nội thị tức điên, nguyền rủa luôn cả đấng sinh thành của gã em họ, cài lại áo khoác, và hoàn toàn không biết phải làm gì, ông ta đi ra khỏi đám đông bát nháo này. Kunz nhất quyết sẽ không rời quảng trường dưới ánh mắt chế giễu của đám đông đang cố nín những trận cười dường như chỉ chờ ông ta bỏ đi là bùng nổ. Ông ta gọi Nam tước Wenk, một người quen đang cưỡi ngựa đi qua phía bên kia đường, và nhờ Wenk đi đến báo với Bá tước Wrede để nhờ vị đại thần này thu xếp cho Kohlhaas đến xem xét mấy con ngựa.
Tình cờ là Kohlhaas lúc đó đang có mặt ở Tối cao Pháp đình, ông được một viên mõ toà gọi đến để giải thích những điều cần thiết về việc ký thác sung công ở Lützen. Nam tước Wenk nói trên bước vào, Đại chưởng ấn đứng dậy với vẻ mặt phật ý và yêu cầu người lái ngựa tạm thời cầm giấy tờ tránh sang một bên, rồi lắng nghe vị nam tước kia – hoàn toàn không biết gì về Kohlhaas – kể lại sự việc rắc rối mà hai người nhà Tronka đã gặp phải. Do những mô tả không đầy đủ của các tòa án ở Wilsdruf, tên mua ngựa già giết thịt từ Döbbeln đã đến đây cùng với những con ngựa thảm hại đến mức Lãnh chúa Wenzel von Tronka cũng không dám khẳng định chúng là những con ngựa của Kohlhaas; để loại trừ mọi khả năng sai lầm, cần phải có Kohlhaas xem xét trực tiếp trước khi quyết định mua mấy con ngựa này và đưa chúng về chuồng ngựa của các vương gia để cố nuôi cho hồi phục. Wenk kết lời: “Mong ngài vui lòng cho vệ binh đến đón người lái ngựa tại nhà ông ta và đưa đến chợ, nơi ngựa hiện đang ở đó.”
Tháo kính ra khỏi sống mũi, vị đại pháp quan nói rằng Wenk đã nhầm lẫn tới hai lần; thứ nhất, khi cho rằng không có cách nào khác để xác định những con ngựa ngoài việc nhờ Kohlhaas nhìn tận mắt, và thứ hai, khi nghĩ rằng ông, Đại chưởng ấn, lại có quyền cho vệ binh có vũ khí đưa Kohlhaas đến bất kỳ nơi nào mà tay lãnh chúa muốn. Dứt lời, ông ta giới thiệu vị khách với người lái ngựa, đang đứng cạnh bên, rồi ngồi xuống và đeo lại kính, quan đề nghị khách trực tiếp hỏi ý Kohlhaas.
Không hề biểu lộ cảm xúc gì ngoài mặt, Kohlhaas nói ông sẵn lòng đi theo người kia đến chợ để xem hai con vật mà tên mua ngựa già đã đưa đến thành phố. Trong khi Wenk lúng túng nhìn theo, Kohlhaas lại đi đến bàn làm việc của Đại chưởng ấn Wrede, trình báo nhiều chi tiết trong các giấy tờ liên quan đến việc sung công ở Lützen, rồi cáo biệt. Wenk, mặt đỏ bừng, cũng kiếu từ; và hai người, được hộ tống bởi ba lính gác cầm trường thương của Hoàng thân Meissen, đi tới quảng trường với với một đám đông hiếu kỳ theo sau.
Quan nội thị Kunz, mặc kệ những lời nài nỉ của một số bạn hữu, vẫn đứng giữa đám đông, đối mặt với tên mua ngựa già từ Döbbeln. Khi Wenk và người lái ngựa xuất hiện thì ông ta, kiếm cặp dưới nách tỏ vẻ uy quyền, lập tức đi thẳng tới Kohlhaas và hỏi: “Hai con ngựa ở đằng sau cỗ xe kia có phải là của ngươi không?” Người chăn nuôi ngựa, khiêm tốn đưa tay khẽ nghiêng vành mũ chào kẻ quyền quý xa lạ kia, ông không trả lời mà đi tới cỗ xe ngựa của tên mua ngựa già, theo sau là các người lính bảo vệ; và đứng cách xa mười hay mười hai bước ông nhìn hai con vật đang đứng run rẩy, đầu cúi rũ, không buồn ăn mớ cỏ khô mà tên mua ngựa già đã quẳng trước mặt chúng: “Đúng rồi, thưa ngài!” Kohlhaas quay sang quan nội thị, “Người mua ngựa già quả không sai, hai con ngựa y buộc sau xe là ngựa của tôi.” Nói xong, ông nhìn lướt qua các vị quý tộc đứng chung quanh, đưa tay lên mũ chào lần nữa, và cùng với mấy người lính hộ tống, rời khỏi quảng trường.
Nghe thế, quan nội thị liền bước nhanh đến chỗ tên mua ngựa già, hấp tấp đến nỗi những chiếc lông trên mũ của ông ta rung lên, và ném cho gã kia một túi tiền; và trong lúc tên mua ngựa già, một tay cầm túi tiền, một tay cầm chiếc lược chì chải mớ tóc xõa xuống mặt, còn mắt thì nhìn số tiền, quan nội thị ra lệnh cho một gia nhân tháo dây buộc cho hai con ngựa và dắt chúng về nhà. Nghe tiếng quát của chủ, tên gia nhân để nhóm bạn bè và bà con của mình ở lại trong đám đông, mặt hắn phải nói là ửng đỏ lên, đi tới chỗ hai con ngựa, bước qua một đống phân lớn không hiểu sao đã nằm ngay dưới chân chúng; nhưng hắn vừa đưa tay cầm lấy dây buộc ngựa thì ông Himboldt, người bà con, đã chặn tay hắn lại và nói: “Đừng có đụng vào mấy con vật thối tha đó!” rồi lôi ngược hắn khỏi cỗ xe. Xong Himboldt lần mò băng qua đống phân và nói với quan nội thị, người đang đứng đó sửng sốt trước sự việc bất ngờ này: “Nếu ngài muốn có người làm cái việc đó thì hãy thuê một tên thợ lột da ngựa!”
Quan nội thị giận sùi bọt mép, nhìn ông Himboldt một lúc, rồi quay lưng, gọi với qua đầu đám tùy tùng đang bao quanh, về phía đội lính hộ vệ. Theo lệnh của Wenk, một sĩ quan cùng mấy vệ binh của Đức Tuyển hầu từ lâu đài chạy đến. Quan nội thị nói ngắn gọn về sự quấy rối đáng hổ thẹn của các công dân rồi liền ra lệnh cho viên sĩ quan bắt giam kẻ đầu sỏ là ông Himboldt. Tóm chặt áo Himboldt, quan nội thị buộc tội y đã ngăn cản tên gia nhân, kẻ vâng lệnh ông đi tháo dây buộc cho hai con ngựa ở đằng sau cỗ xe, rồi quật cho người kia ngã xuống đất. Bằng một động tác khéo léo, ông Himboldt đã vùng thoát khỏi nắm tay của quan nội thị, và phản đối: “Thưa ngài, chỉ bảo cho một thằng nhỏ hai mươi tuổi việc gì nên làm đâu phải là xúi giục nó nổi loạn. Ngài hãy đi mà hỏi nó xem nó có muốn động vào những con vật bẩn thỉu, hôi thối như hai con ngựa kia không; nếu tôi đã nói vậy mà nó vẫn muốn thì cứ việc! Và nó có lột da, xẻ thịt chúng thì tôi cũng thây kệ!”
Nghe thế quan nội thị bèn quay sang tên gia nhân trẻ tuổi và hỏi nó có chịu tuân lệnh đi tháo dây cho mấy con ngựa của Kohlhaas rồi dắt về nhà hay không. Tên gia nhân, sợ hãi đứng lẫn trong đám đông, trả lời: “Phải làm cho mấy con ngựa đó sạch sẽ thì tôi mới chịu.” Thế là quan nội thị tiến đến phía sau tên gia nhân, hất chiếc mũ có thêu gia huy nhà Kunz khỏi đầu hắn, giẫm lên chiếc mũ, rút kiếm ra và bắt đầu dùng má kiếm mà quất tên người hầu, khiến hắn bỏ chạy khỏi quảng trường và chạy trốn luôn công việc phải làm. Ông Himboldt kêu lên: “Hãy cho tên ác ôn khát máu này một trận!” và trong lúc những người dân phẫn nộ xông lên, xô đám vệ binh sang một bên, Himboldt quật cho quan nội thị ngã ngửa ra, lột phăng áo choàng, cổ cồn và chiếc mũ, giật thanh kiếm khỏi tay quan và ném phăng qua quảng trường.
Chạy thoát cuộc loạn đả ấy, Lãnh chúa Wenzel đã cố công vô ích kêu gọi người cứu viện cho người anh họ của y; chưa kịp ra tay thì họ đã bị đám đông đánh cho tan tác, bỏ mặc quan nội thị, đã ngã nhào và bị thương ở đầu, một mình chịu đựng cơn thịnh nộ của đám đông. Nhờ tình cờ có một đội thương kỵ binh đi ngang qua quảng trường, được viên sĩ quan của đội vệ binh cầu cứu, thì quan nội thị mới được giải thoát. Sau khi đã dẹp tan đám đông, viên sĩ quan bắt giữ Himboldt, kẻ đầu têu hung hăng, và trong khi Himboldt bị mấy người lính áp giải đến nhà tù, có hai người bạn đã bế vị quan nội thị bất hạnh, người đầy máu me, và đưa về nhà. Quả là kết cục tai hoạ của một cố gắng thật sự và có hảo ý nhằm khắc phục những lỗi lầm đã gây ra cho người lái ngựa. Lúc mọi người bắt đầu giải tán, tên buôn ngựa già ở Döbbeln đã xong công việc ở thành phố này, gã buộc đại hai con ngựa ấy vào cột đèn rồi ra đi, không muốn nấn ná. Hai con vật đứng suốt ngày ở đó, trước sự chế nhạo của đám ranh con và lũ vô công rồi nghề, cho đến khi cảnh sát phải dắt đi vì không có ai đứng ra chăm lo cho chúng, và đến tối, họ gọi tay lái buôn ngựa già ở Dresden đưa hai con vật đó ra lò mổ ở ngoại thành giữ tạm cho đến khi có thông báo mới.
Biến cố này dù không hề do người lái ngựa gây ra, nhưng dường như vẫn khơi dậy trong đầu óc tầng lớp dân chúng ôn hoà và khá giả khắp xứ sở này một tâm lý rất bất lợi cho việc kiện tụng của ông. Họ không ủng hộ việc Kohlhaas đối đầu với công quyền, và cảm nghĩ chung trong tư gia cũng như ở nơi công cộng là thà bất công rành rành đối với người lái ngựa để kết thúc toàn bộ vụ kiện này còn hơn là trả lại cho ông sự công bằng, ở thế bị cưỡng bức bằng bạo lực, trong một vấn đề vụn vặt, chỉ để thỏa mãn tính cố chấp điên rồ của ông.
Điều dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của Kohlhaas đáng thương là việc chính Đại chưởng ấn Wrede, do lòng chính trực thái quá và vì thế mà thù ghét nhà Tronka, rốt cuộc lại góp phần làm cho tâm lý này lan rộng thêm. Rất khó có khả năng là hai con ngựa hiện đang được người buôn ngựa già ở Dresden trông sẽ được khôi phục lại tình trạng ban đầu như khi chúng rời chuồng ở Kohlhaasenbrück. Nhưng dẫu cho điều đó có thể làm được, bằng chuyên môn và sự chăm sóc liên tục, thì trong hoàn cảnh này nỗi ô nhục đổ lên đầu dòng họ của Lãnh chúa Wenzel sẽ quá lớn – xét đến danh giá của họ là một gia đình quý tộc thuộc hàng nhất phẩm triều đình – đến mức muốn tránh né thì chỉ một còn cách dễ dàng và thực tế nhất là chịu một hình phạt thay thế bằng tài chính.
Mấy hôm sau biến cố đó, Thừa tướng, Bá tước Kallheim, đã thay mặt cho quan nội thị vẫn đang nằm liệt vì thương tích, đưa ra đề nghị này trong một lá thư gửi cho Đại chưởng ấn Wrede. Nhưng sau khi nhận được, vị đại pháp quan lại viết thư cho Kohlhaas, khuyên rằng nếu người lái ngựa nhận được một đề nghị như vậy thì cũng đừng từ chối; còn với chính Kallheim, Đại chưởng ấn lại phúc đáp vắn tắt, lạnh lùng rằng làm ơn đừng để ông ta phải vướng bận với những chuyện phó thác riêng tư như thế, và khuyên quan nội thị nên nói chuyện trực tiếp với người lái ngựa, kẻ mà ông ta cho là một người lương thiện và biết chừng mực.
Chính người lái ngựa, đã khá nản lòng vì chuyện diễn ra ở khu chợ hôm nọ, cũng mong chờ cho phía lãnh chúa mở lời trước với thiện chí hết mực và bỏ qua mọi chuyện, đúng như lời khuyên của Đại chưởng ấn Wrede. Thế nhưng làm gì có chuyện đám quý tộc kiêu hãnh kia lại mở lời trước như vậy; uất ức với phúc đáp của vị đại pháp quan, họ đã đưa bức thư đó cho Đức Tuyển hầu xem vào sáng hôm sau, khi ngài viếng thăm quan nội thị thương tích liệt giường.
Giọng thều thào run rẩy, quan nội thị hỏi Đức tuyển hầu rằng, sau khi đã đánh liều tính mạng để giải quyết sự việc theo ý muốn của ngài, chẳng lẽ ông ta giờ phải đánh liều cả danh dự của mình trước bia miệng thế gian mà chường mặt đi nài xin sự nhân nhượng của chính kẻ đã gây ra tất cả những chuyện nhục nhã ê chề cho dòng họ này. Đức Tuyển hầu đọc thư xong lại lúng túng hỏi Bá tước Kallheim rằng liệu tòa án có quyền khẳng định rằng mấy con ngựa ấy đã vô phương cứu vãn mà không cần hỏi ý Kohlhaas không, và vì thế hình phạt cuối cùng sẽ đổi thành phạt tiền, như là lũ ngựa đã chết thật rồi, có được không?
Bá tước đáp: “Thưa Chúa công, chúng đã chết thực sự; về mặt pháp lý, chúng đã chết vì chúng không có giá trị gì, và về mặt thể xác chúng sẽ chết trước khi được đưa ra khỏi lò mổ để giao về chuồng ngựa của các vương gia.” Nghe vậy Đức Tuyển hầu cất lá thư đó vào túi và nói sẽ đích thân gặp Đại chưởng ấn Wrede về vấn đề này, rồi ngài trấn an viên quan nội thị lo lắng đã gượng ngồi dậy, và sau khi hết lời khuyên quan nội thị phải giữ gìn sức khoẻ, ngài đứng lên ra về.
Trong tình hình đó thì ở Dresden lại xảy ra chuyện, một biến cố dữ dội hơn đã nảy sinh ở Lützen nhưng đám quý tộc ranh ma đã khôn khéo làm cho Kohlhaas đáng thuơng phải chịu hậu quả của tai hoạ này. Một tên Johann Nagelschmidt nào đó từng là thuộc hạ trong đội quân chiêu tập của người lái ngựa, và sau khi đội quân này giải tán theo điều kiện ân xá của Đức Tuyển hầu, tên này mấy tuần sau đó thừa cơ tập hợp lại một số tên tội phạm, và cướp phá dọc theo biên giới Bohemia, tự tiện làm cái việc mà hắn đã quen làm khi đi theo Kohlhaas. Một phần để gây sợ hãi cho các nhân viên công lực đang truy đuổi, và một phần là để khích lệ dân nông thôn cầm vũ khí tham gia vào chuyện đê hèn của hắn, tên lưu manh đó tự nhận là phó soái của Kohlhaas. Với sự khôn ngoan học được từ vị thủ lĩnh cũ, hắn phao tin rằng nhiều thuộc hạ của Kohlhaas lặng lẽ về quê đã không được hưởng lệnh ân xá như triều đình đã hứa, và bản thân Kohlhaas, do sự bội ước kinh thiên động địa này, cũng đã bị bắt sau khi ông đến Dresden và hiện đang bị canh giữ. Trong các cáo thị bắt chước theo Kohlhaas, hắn mạo xưng băng nhóm côn đồ đốt phá của hắn là một đội quân được thành lập vì hồng ân của Chúa, với mục đích giám sát việc thực thi lệnh ân xá đã hứa. Và mọi chuyện này, như đã nói, chẳng phải vì hồng ân của Chúa mà cũng chẳng phải vì lòng trung thành với Kohlhaas; bọn chúng nào có quan tâm gì đến số phận của người lái ngựa mà chỉ lợi dụng danh nghĩa của ông để tha hồ cướp bóc và đốt phá.
Ngay khi những tin tức đầu tiên về diễn biến này truyền đến Dresden thì đám vương gia nhà Tronka đã không giấu được nỗi vui mừng trước sự việc này, một bước ngoặt đã làm cho vụ kiện thay đổi theo chiều hướng hoàn toàn khác. Với những cái liếc mắt ác hiểm và đầy ngụ ý, họ nhắc mọi người nhớ đến điều sai lầm đã mắc phải khi đề nghị ân xá cho Kohlhaas mà bỏ qua những lời cảnh báo cấp bách và thường xuyên của chính họ; cứ như là những ai ủng hộ việc ân xá đó đã cố tình tiếp tay cho đám tội phạm đủ loại bắt chước người lái ngựa vậy. Và không chịu chấp nhận lời tuyên bố của Nagelschmidt rằng hắn đã cầm vũ khí chỉ để bảo vệ cho sự an toàn của vị thủ lĩnh đang bị giam cầm, họ thậm chí còn quả quyết rằng sự việc mới hoàn toàn là một mưu kế do Kohlhaas khởi xướng, để gây sợ hãi cho chính phủ và nhanh chóng giành được một phán quyết hoàn toàn thuận theo sự ngoan cố điên cuồng của người lái ngựa.
Chưa hết, sau một bữa ăn tối ở tiền sảnh dinh Đức Tuyển hầu, quan tửu chính Hinz còn đi xa tới mức tuyên bố với một số triều thần và đám tùy tùng săn bắn rằng việc giải tán đội quân ăn cướp ở Lützen chỉ là một màn kịch đáng nguyền rủa. Và trong khi nhạo báng tình yêu công lý của Đại chưởng ấn Wrede, y khéo léo xâu kết nhiều sự việc khác nhau để chứng minh rằng đám đạo tặc ấy vẫn còn nguyên vẹn, đang ẩn náu trong vùng rừng của công quốc, chỉ chờ người lái ngựa ra hiệu là lại xông ra giết người, đốt nhà.
Bất bình về diễn biến bất ngờ này, điều có nguy cơ làm ô danh Đức Tuyển hầu, Hoàng thân Christian von Meissen lập tức đến dinh Chúa công để gặp ngài; và nhận ra đám vương gia kia viện cớ những cuộc cướp phá mới xảy ra để rắp tâm tiêu diệt Kohlhaas, vị hoàng thân đã xin phép thẩm vấn người lái ngựa ngay lập tức. Người lái ngựa hơi sửng sốt khi được một hiến binh báo ông phải đến công đường. Ông đi mà hai tay vẫn bế hai con trai, Heinrich và Leopold, bởi vì người gia nhân Sternbald đã trở về từ Mecklenburg cùng năm đứa con của ông một ngày trước. Hai đứa nhỏ đã kêu khóc đòi đi theo khi Kohlhaas rời nhà, và do không còn thời gian để suy xét thấu đáo mọi điều, ông bế luôn hai thằng bé đến nơi thẩm vấn.
Sau khi độ lượng nhìn hai đứa trẻ đã đặt xuống cho ngồi cạnh bên người cha và ân cần hỏi tên tuổi chúng, vị hoàng thân cho Kohlhaas biết những hành động thái quá mà thủ hạ một thời của ông là Nagelschmidt đã tự tiện ra tay trong các thung lũng dãy núi Erz; và cho người lái ngựa xem cái gọi là những tuyên cáo của kẻ này, rồi cho phép ông muốn nói gì để biện hộ thì cứ nói.
Dù kinh hãi trước những tài liệu xảo trá và nhục nhã này, Kohlhaas trước một người chính trực như vị hoàng thân này cũng vẫn dễ dàng chứng minh một cách đầy thuyết phục về sự vô căn cứ của những cáo buộc chống lại mình. Ngoài ra, theo suy nghĩ của ông, người lái ngựa thấy rằng, trong tình hình vụ kiện đang diễn tiến thuận lợi, ông không cần bất kỳ bên thứ ba nào trợ giúp; và hơn nữa, qua một số giấy tờ mang theo người và trình cho vị hoàng thân xem, một kẻ lòng dạ như Nagelschmidt lại càng không thể dành cho ông bất kỳ sự ưu ái nào, bởi vì ngay trước khi giải tán lực lượng ở Lützen, ông đã sắp sửa cho treo cổ tên này vì tội cưỡng hiếp và đủ thứ tội khác. Chỉ có tuyên bố ân xá của Đức Tuyển hầu mới cứu được Nagelschmidt kịp thời, cắt đứt mọi quan hệ giữa Kohlhaas với hắn ta, và hôm sau cả hai chia tay nhau như những kẻ thù không đội trời chung.
Theo đề nghị của Hoàng thân, Kohlhaas đã ngồi xuống viết một bức thư công khai cho Nagelschmidt, trong đó ông nói rằng bất kỳ tuyên bố nào về việc cầm vũ khí nhân danh bảo vệ ông và đội quân cũ vì cớ lệnh ân xá bị vi phạm đều chỉ là lời nói dối nhục nhã và ác độc; ông nói với Nagelschmidt rằng khi đến Dresden, ông không bị bắt giam mà cũng không bị quản thúc, và vụ kiện của ông đang tiến triển hoàn toàn mỹ mãn; và cảnh báo rằng những kẻ đi theo Nagelschmidt sẽ lãnh đủ sự trừng phạt ghê gớm của pháp luật vì những vụ giết người và đốt phá gây ra ở dãy núi Erz sau khi lệnh ân xá đã được ban hành. Kèm theo đó là mấy chi tiết liên quan đến việc người lái ngựa lúc ở thành Lützen đã xử tội Nagelschmidt vì những việc ô nhục nói trên, để cho mọi thường dân biết rằng tên vô lại ấy, kẻ thậm chí lúc đó đã suýt bị treo cổ, chỉ được thoát chết vào phút chót nhờ lệnh ân xá của Đức Tuyển hầu.
Hoàng thân trấn an Kohlhaas rằng trong tình thế này thì người lái ngựa không thể tránh khỏi sự nghi ngờ nên mới có cuộc thẩm vấn như thế. Ông ta quả quyết rằng chừng nào Kohlhaas còn ở Dresden thì lệnh ân xá vẫn có hiệu lực; Hoàng thân bắt tay hai cậu bé, cho chúng ít trái cây trên bàn, chào Kohlhaas và cho phép cha con ông ra về.
Đại chưởng ấn Wrede, hiểu rõ nguy cơ mà người lái ngựa đang gặp phải, đã cố gắng hết sức để kết thúc vụ kiện trước khi có thể xảy ra bất kỳ biến cố mới nào; nhưng đó lại chính là điều mà đám vương gia xảo quyệt kia mong muốn và tìm cách gây chuyện. Nhà Tronka thay vì như trước đây âm thầm nhận tội và chấp nhận một hình phạt ít khắc nghiệt, họ bây giờ bắt đầu dùng đủ lý lẽ gian trá và mánh khoé cản trở để phủ nhận hoàn toàn tội lỗi của mình. Lúc thì họ cho rằng việc mấy con ngựa của Kohlhaas bị giữ lại ở Tronkenburg là do gã quản lý lâu đài và gã quản gia đầu têu, và chúng đã không bẩm báo rạch ròi với Lãnh chúa Wenzel; lúc thì họ thề rằng hai con vật kia khi đến Tronkenburg thì đã bị mắc bệnh rất nặng, và họ đòi đưa người đến làm chứng. Và khi những cuộc điều tra rốt ráo và đối chất đã đập tan những lập luận này, họ lại trình ra một chỉ dụ của Đức Tuyển hầu đã ban bố từ hơn mười năm trước về việc ngừng du nhập ngựa từ Brandenburg đến Saxony vì dịch bệnh nguy hiểm; họ coi đó là bằng chứng rõ ràng rằng Lãnh chúa Wenzel không những có quyền mà còn có nghĩa vụ tích cực ngăn chặn không cho con ngựa của Kohlhaas vượt qua biên giới.
Trong lúc này Kohlhaas đã mua lại được trang trại cũ của mình ở Kohlhaasenbrück từ người quản điền láng giềng hảo tâm cùng với một khoản bồi thường nhỏ. Ông bây giờ muốn rời khỏi Dresden và trở về quê vài hôm, dường như là để lo giấy tờ xác nhận về vụ mua bán đó. Chúng tôi tin chắc rằng ý muốn này không liên quan gì đến thương vụ ấy, và những lý do cho dù có thể cần kíp đến đâu – như việc gieo hạt cho kịp vụ đông – cũng không quan trọng bằng ý muốn xác định lại vị thế của ông trong tình thế đặc biệt nguy nan này; còn những lý do khác cũng có thể đóng vai trò nào đó thì chúng tôi sẽ để cho độc giả tự suy đoán lấy. Thế là ông bảo toán lính canh đã được chỉ định bảo vệ ông ở lại, một mình ông đến gặp Đại chưởng ấn Wrede, và tay cầm lá thư của người láng giềng ở quê, ông nói rằng do việc toà hiện không cần ông có mặt, ông có ý muốn rời thành phố và trở về quê ở Brandenburg trong một hoặc hai tuần, và sẽ quay trở lại đây khi hết thời hạn.
Cúi nhìn xuống với vẻ đắn đo tư lự, vị đại pháp quan đáp trong lúc này sự hiện diện của người lái ngựa ở Dresden thật sự cần thiết hơn bao giờ hết, để giải trình và chứng minh với tòa án về những lập luận ngụy biện và xảo quyệt của bên bị đơn trăm phương ngàn kế khó lường. Nhưng Kohlhaas đề cử với Đại chưởng ấn một trạng sư đại diện đã hoàn toàn biết rõ mọi vấn đề, và kiên trì nhưng nhẹ nhàng nài nỉ, ông hứa sẽ đi trong vòng một tuần thôi. Sau một lúc im lặng, Đại chưởng ấn Wrede, khi cho Kohlhaas ra về, nói rằng ông ta mong là người lái ngựa sẽ xin giấy phép về việc này ở chỗ Hoàng thân Christian von Meissen.
Kohlhaas, lúc này đã quá hiểu thần thái của vị đại pháp quan, lại càng quyết tâm hơn, và ông viết ngay một thư xin Hoàng thân von Meissen, với tư cách là người đứng đầu triều đình, cấp giấy thông hành cho ông đi về Kohlhaasenbrück một tuần rồi quay lại, nhưng không nêu lý do. Và ông nhận được một công văn phúc đáp từ phủ thống đốc mang chữ ký của Nam tước Siegfried von Wenk, đại ý là đơn xin cấp thông hành đi Kohlhaasenbrück của ông sẽ được trình lên Đức Tuyển hầu, và giấy thông hành sẽ được gửi cho ông ngay sau khi đã được Chúa công chuẩn y. Khi Kohlhaas hỏi trạng sư của mình tại sao thư phúc đáp của phủ thống đốc lại do một Nam tước von Wenk nào đó ký, chứ không phải do Hoàng thân Christian von Meissen, người mà ông đã đệ đơn, thì ông được biết rằng Hoàng thân đã về điền trang ở nông thôn của ông ta từ ba ngày trước, và rằng Nam tước von Wenk, một người anh em bà con của Hoàng thân, sẽ thay mặt điều hành công việc.
Kohlhaas bắt đầu lo sợ trước những diễn biến này, ông mất mấy ngày chờ đợi kết quả của một đơn xin bình thường mà không hiểu sao lại phải trình duyệt với Đức Tuyển hầu một cách phức tạp như vậy. Một tuần trôi qua, rồi sang tuần thứ hai, vẫn không có tin tức gì về giấy thông hành, cũng như không có tin tức gì khác từ toà án về vụ kiện của ông, mặc dù phía toà trước đây đã hứa chắc chắn. Đến ngày thứ mười hai, nhất quyết phải buộc chính quyền công khai ý định đối với ông, bất kể đó là gì, Kohlhaas một lần nữa viết thư gửi tới công quyền hỏi về việc cấp giấy thông hành vì đang cần kíp. Đến tối hôm sau, vẫn không thấy thư hồi âm, trong lúc trầm ngâm đi tới cửa sổ căn phòng nhỏ phía sau nhà, suy nghĩ về hoàn cảnh của mình và nhất là là lệnh ân xá mà Tiến sĩ Luther đã bảo đảm, Kohlhaas ngạc nhiên hết sức khi không thấy toán lính gác mà Hoàng thân Meissen đã cắt cử bảo vệ ông trong căn nhà phụ ngoài sân dùng làm chỗ ở của họ.
Ông gọi lão gia nhân Thomas đến và hỏi chuyện này nghĩa là sao, thì nghe người hầu già thở dài trả lời: “Thưa ông, có gì đó bất thường; hôm nay lính tráng lại đông hơn mọi ngày, họ bao quanh nhà này từ lúc chập tối; có hai người câm khiên giáo đứng ở cửa trước; hai người nữa ở cổng vườn; và thêm hai người khác nằm trên những bó rơm ngoài phòng chờ, bảo rằng họ sẽ ngủ lại ở đó.”
Mặt biến sắc, Kohlhaas quay đi và nói: “Họ có ở đó cũng không sao,” rồi bảo già Thomas treo đèn lên để họ nhìn thấy ông nếu như ông có đi ra ngoài. Sau khi mở một cửa sổ phía trước nhà, lấy cớ là cần đổ bô xuống đường, ông thấy đúng y như những gì ông lão gia nhân đã nói; bởi vì ngay lúc đó các lính gác đang âm thầm đổi phiên canh, một điều trước giờ chưa từng có. Thấy thế, ông lên giường nằm mặc dù không chút mệt mỏi, trong lòng đã quyết những gì phải làm trong ngày mai. Không có điều gì khiến ông bất bình cho bằng chuyện chính quyền lại giả vờ như nêu cao công lý, trong khi họ thực sự đã vi phạm các điều kiện của lệnh ân xá mà họ đã đề nghị với ông; và nếu thực sự ông bị quản thúc tại gia – điều không còn nghi ngờ gì nữa – thì ít nhất ông muốn họ phải tuyên bố thẳng thắn và dứt khoát rằng đúng là như thế.
Thế là trời vừa rạng sáng, Kohlhaas đã sai gia nhân Sternbald thắng ngựa vào cỗ xe cho ông, và kéo xe đến trước cửa để, theo lời ông, đi thăm bạn cũ là quản gia ở Lockewitz, người này đã ghé thăm ông ở Dresden mấy hôm trước và mời ông cùng các con đến chơi. Thấy động bên trong, đám lính canh chụm đầu bàn tính rồi bí mật cử một tên trong bọn vào thành phố. Chỉ vài phút sau, một tay sĩ quan dẫn đầu một đội cảnh binh đã xuất hiện, và đi vào căn nhà đối diện làm như thể họ có công chuyện gì ở đó. Bận bịu thay đồ cho lũ trẻ, Kohlhaas cũng thấy hành động này, và ông cứ cố tình để xe ngựa ngoài cửa thật lâu; khi thấy đội cảnh binh đã chuẩn bị xong, ông mới cùng các con bước ra ngoài, làm như không hay biết gì. Và khi đi ngang toán lính canh đang đứng trước cửa, Kohlhaas bảo họ rằng không cần phải đi theo ông, rồi bế mấy bé trai lên xe ngựa, hôn và an ủi mấy bé gái đang khóc lóc vì ông bắt chúng phải ở nhà với cô con gái của người hầu già.
Ông vừa leo lên xe ngựa thì tay sĩ quan cùng đội cảnh binh từ ngôi nhà đối diện ùa ra và hỏi ông đi đâu. Nghe Kohlhaas trả lời ông đi thăm bạn ở Lockewitz, người này mấy ngày trước đã mời ông và các con trai đến chơi nhà ở vùng quê, tay sĩ quan nói rằng nếu vậy, Kohlhaas sẽ phải chờ một lát để cho một toán kỵ binh đi cùng, theo lệnh của Hoàng thân Meissen.
Kohlhaas ngồi trên xe ngựa vừa cười vừa hỏi: “Ông nghĩ là tôi sẽ gặp hiểm nguy khi ở nhà của một người bạn đã mời tôi ghé chơi và ở lại một ngày sao?” Tay sĩ quan trả lời với giọng bông đùa vui vẻ rằng y không thấy nguy hiểm nào ghê gớm cả; nhưng y nói thêm rằng toán lính đi theo cũng không hề gây trở ngại gì. Kohlhaas mới nghiêm túc trả lời rằng: “Từ lúc tôi đến Dresden, Hoàng thân Meissen đã cho tôi tùy ý có cần dùng tới lính gác hay không.” Và do tay sĩ quan đã rất ngạc nhiên khi nghe nói như thế và cẩn thận lựa lời nhắc đến việc người lái ngựa đã luôn có lính gác bảo vệ trong suốt thời gian ông ở thành phố này, Kohlhaas mới cho y biết nguyên nhân nào ngay từ đầu đã dẫn đến việc cắt cử lính canh bên ngoài ngôi nhà của ông.
Tay sĩ quan quả quyết với Kohlhaas rằng lệnh của Nam tước von Wenk, hiện đang giữ chức vụ tư lệnh cảnh binh, là bắt buộc phải bảo vệ liên tục cho người lái ngựa, và y nói rằng nếu ông không hài lòng về việc hộ tống thì chính ông phải đi tới phủ thống đốc để cải chính những điều mà ở đó mọi người đang hiểu lầm. Nhìn tay sĩ quan với ánh mắt đầy quả quyết, Kohlhaas nhất định phải làm rõ chuyện này bằng cách nào đó; ông nói “Tôi sẽ làm đúng như thế.” Tim đập mạnh, ông xuống xe, bảo lão gia nhân đưa mấy bé trai vào trong nhà trở lại, và để cho mã phu cùng xe ngựa chờ trước cửa, ông cùng tay sĩ quan và đội cảnh binh của y đi tới phủ thống đốc.
Tình cờ là lúc đó tư lệnh cảnh binh, Nam tước von Wenk, lại đang bận thẩm vấn mấy tên thuộc hạ của Nagelschmidt mới bị bắt giữ ở khu vực Leipzig vào hôm trước. Người lái ngựa và đội cảnh binh bước vào đúng lúc vị Nam tước cùng một số chức sắc đang tra hỏi đám côn đồ kia về những điều họ rất muốn biết. Thấy người lái ngựa, các vị chức sắc liền im bặt và ngừng thẩm vấn, còn vị Nam tước liền đi tới hỏi Kohlhaas cần gì. Và khi người lái ngựa kính cẩn trình báo với ông ta về ý định đi ăn trưa với người bạn quản gia ở Lockewitz, và bày tỏ mong muốn được đi mà không cần tới lính hộ tống, Nam tước mặt liền biến sắc, và dường như cố nén những lời lẽ nóng nảy, ông ta trả lời rằng người lái ngựa tốt nhất là nên ở yên trong nhà của mình, và tạm thời hoãn lại việc ăn trưa với người bạn ở Lockewitz. Rồi Nam tước von Wenk chấm dứt cuộc trò chuyện, quay sang tên chỉ huy đội cảnh binh và nói: “Mệnh lệnh đã ban hành liên quan đến người này là có mục đích, và người này sẽ không được rời khỏi thành phố mà không có sáu kỵ binh đi theo.”
Kohlhaas hỏi ông có phải là tù nhân hay không, và lẽ nào ông phải nghĩ rằng lệnh ân xá được long trọng hứa hẹn trước thiên hạ đã bị vi phạm. Nghe thế Nam tước đột nhiên mặt đỏ bừng bừng, ông ta quay lại và đến sát trước mặt Kohlhaas, nhìn trừng trừng vào mắt ông và nói: “Phải! Phải! Đúng thế đó!” rồi quay phắt đi, quay lại với công việc thẩm vấn đám côn đồ của Nagelschmidt.
Kohlhaas đi ra, và dù hiểu rằng kế sách duy nhất, tức là chạy trốn, đã trở nên khó khăn hơn nhiều do chính những việc mình đã làm, ông cũng hài lòng vì bây giờ ông thấy rằng chính mình cũng không cần phải tuân thủ các điều kiện bắt buộc của lệnh ân xá nữa. Về đến nhà, Kohlhaas cho tháo ngựa ra khỏi xe, rồi ông chán nản đi vào phòng, với tay sĩ quan kia cùng đi theo. Trong lúc tay sĩ quan, bằng giọng điệu khiến người lái ngựa thấy ghê tởm, trấn an rằng toàn bộ sự việc này chỉ là một sự hiểu lầm và sẽ sớm được giải quyết, thì đội cảnh binh, theo cái nháy mắt ra hiệu của y, đã chặn tất cả các cánh cửa đi ra sân trong; tay sĩ quan khẳng định với ông rằng cửa chính vẫn để ngỏ như trước cho ông tùy nghi sử dụng bất cứ lúc nào.
Trong lúc đó, Nagelschmidt trong vùng rừng của dãy núi Erz đang bị lực lượng pháp luật và quân đội gây áp lực tứ bề, đến mức khi bất lực và tuyệt vọng không thể hoàn thành vai trò mà hắn tự phong, hắn thật sự đã nghĩ đến việc lôi kéo Kohlhaas. Qua một lữ khách tình cờ, hắn đã biết được khá chính xác về tình trạng hiện tại của người lái ngựa trong vụ kiện ở Dresden. Nagelschmidt cho rằng, bất kể sự thù địch công khai giữa hai bên, hắn có thể thuyết phục được người lái ngựa chấp nhận một thoả thuận mới. Thế là hắn sai một thuộc hạ mang đến Kohlhaas một bức thư, viết bằng thứ chữ nghĩa hầu như không hiểu nổi, đại ý là: Nếu Kohlhaas bằng lòng đến Altenburg và nắm quyền chỉ huy đội quân bao gồm những người còn lại trong lực lượng cũ, thì hắn đề nghị giúp người, giúp ngựa, và tiền bạc để ông trốn thoát khỏi cảnh giam giữ ở Dresden. Hắn còn hứa sẽ phục tùng hơn, có kỷ luật hơn và đàng hoàng hơn trước kia, và để chứng minh cho sự trung thành và tận tâm của mình, Nagelschmidt thậm chí còn hứa chính hắn sẽ lên đường đến vùng phụ cận Dresden để lo việc giải thoát cho ông.
Kẻ được hắn giao phó lá thư này khi đến một ngôi làng ngay ngoại thành Dresden rủi thay lại lên cơn co giật hiểm nghèo, chứng bệnh mắc phải từ thời niên thiếu. Những người đến cứu giúp gã lại tìm thấy lá thư này trong chiếc túi gã đeo trên cổ, và thế là chính gã ta, ngay sau khi đỡ đau, đã bị bắt và bị lính giải đến công đường, với một đám đông dân chúng đi theo.
Tư lệnh von Wenk đọc xong lá thư liền đi ngay đến triều đình; đang có mặt ở đó là các quan Hinz và Kunz (quan nội thị hiện đã bình phục) cùng Thừa tướng Bá tước Kallheim. Các vị này đều nghĩ rằng nên bắt giam Kohlhaas ngay lập tức và đưa ra xét xử vì tội bí mật thông đồng với Nagelschmidt; họ nêu bằng chứng rằng một bức thư như vậy không thể nào viết ra mà không có những liên lạc từ trước của người lái ngựa, và không thể không có một toan tính kết hợp lực lượng để mưu đồ những việc làm tàn bạo mới. Đức Tuyển hầu nhất quyết không đồng ý chỉ vì lá thư này mà vi phạm các điều kiện bảo đảm an toàn đi lại mà ngài đã ban cho người lái ngựa; theo ngài, thư của Nagelschmidt cho thấy rằng giữa hai kẻ này thực sự không có liên lạc qua lại từ trước; và sau một lúc đắn đo, ngài bằng lòng làm một điều duy nhất để xem mọi sự diễn tiến ra sao là chấp nhận đề nghị của quan thương thư: cứ để cho tên thuộc hạ của Nagelschmidt đi giao bức như thể gã ta chưa hề bị bắt, và xem người lái ngựa có trả lời thư này không.
Tên thuộc hạ đã bị tống vào tù giờ lại được đưa đến phủ thống đốc vào sáng hôm sau; viên tư lệnh trả lại bức thư cho gã ta, bảo đảm tên này sẽ được tự do và miễn mọi hình phạt, và ra lệnh cho hắn phải giao bức thư cho người lái ngựa, như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Tên thuộc hạ đồng ý ngay lập tức với mưu chước tồi tệ này, và làm ra vẻ hết sức bí mật, gã ta giả dạng làm người bán cua với số cua mà các viên chức đã lấy ngoài chợ, và bước vào phòng Kohlhaas.
Trong lúc lũ trẻ con nghịch với những con cua, Kohlhaas đọc thư; trong hoàn cảnh khác, ông lẽ ra đã tóm cổ tên kia và giao cho toán lính canh đứng bên ngoài; nhưng trong tình trạng của ông hiện thời, ngay cả một hành động như thế cũng có thể gây nghi ngờ, và ông phải tin rằng không có gì trên đời này có thể khiến ông thoát khỏi hoàn cảnh rắc rối này, cho nên ông buồn bã nhìn gương mặt quen quen của tên kia, hỏi gã ta đang ở đâu, và bảo hắn sau vài giờ nữa quay lại đây nhận thư trả lời của ông chuyển cho Nagelschmidt. Thấy Sternbald tình cờ bước vào, ông bảo người gia nhân ấy mua cua, và sau khi xong việc mua bán, cả hai lại đi ra ngoài, không hề nhận biết nhau, ông bắt đầu viết thư trả lời cho Nagelschmidt, nội dung như sau:
Trước hết, Kohlhaas chấp nhận đề nghị nắm quyền chỉ huy đội quân cũ của ông ở Altenburg; và vì thế để giải thoát ông cùng năm đứa con khỏi cảnh giam giữ này, hắn phải cắt đặt một cỗ xe với hai con ngựa đến Neustadt ở Dresden. Để đi cho nhanh, ông cần thêm một cặp ngựa nữa chờ sẵn trên trên đường đi Wittenberg; đó là đường vòng nhưng lại là con đường duy nhất để ông có thể đi tới chỗ hắn, còn lý do tại sao thì quá phức tạp không thể nói cặn kẽ. Kohlhaas nghĩ rằng có thể mua chuộc đám lính đang canh giữ ông bằng cách đút lót, nhưng trong trường hợp phải dùng đến vũ lực thì có vài trợ thủ gan dạ và trang bị vũ khí đầy đủ chờ sẵn ở Neustadt sẽ rất hữu dụng. Để lo liệu cho các việc chuẩn bị, ông gửi cho Nagelschmidt hai mươi đồng tiền vàng thông qua người liên lạc này, và khi xong việc ông sẽ tính toán lại với hắn. Kohlhaas yêu cầu Nagelschmidt đừng đến Dresden, bởi vì điều đó không cần thiết, thậm chí ông còn ra lệnh buộc hắn ở lại Altenburg với thuộc hạ, và không được để rắn mất đầu.
Đó là bức thư ông đưa cho tên liên lạc khi gã ta quay lại vào buổi tối; ông thưởng công hậu hĩnh và bảo gã phải giữ kỹ bức thư. Kế hoạch của ông thật ra là sẽ cùng năm đứa con thơ đi đến Hamburg, rồi từ đó lên tàu tới vùng Tây Á hoặc Đông Ấn, hoặc bất cứ nơi nào có bầu trời xanh và những con người xa lạ, bởi vì ông đã nản lòng, không muốn đeo đuổi tới cùng vụ kiện về mấy con ngựa nữa, chứ hoàn toàn không phải là ông sẵn lòng hợp tác với Nagelschmidt.
Tên liên lạc trao bức thư này cho vị tư lệnh xong thì Đại chưởng ấn Wrede liền bị cách chức, Thừa tướng Bá tước Kallheim, được giao nhiệm vụ đứng đầu Tối cao Pháp đình, và Kohlhaas chính thức bị bắt giam theo lệnh của Đức Tuyển hầu, bị xiềng xích giải đến ngục tháp. Ông bị buộc tội vì bức thư phúc đáp ấy, bản sao của bức thư này đã được niêm yết khắp kinh thành. Trước toà, khi trạng sư hỏi rằng ông có nhận chữ viết kia là của mình hay không thì ông trả lời “Có!” nhưng khi được hỏi ông có điều gì muốn biện hộ không thì ông nhìn xuống và trả lời “Không!” Kohlhaas bị kết án phải chịu nhục hình tra tấn bằng sắt nung đỏ, sau đó sẽ bị tứ mã phanh thây, và xác sẽ bị thiêu giữa pháp trường.
Trong lúc Kohlhaas đáng thương ở Dresden lâm vào hoàn cảnh đó thì Đức Tuyển hầu Brandenburg xuất hiện để giải cứu ông thoát khỏi ách bạo quyền, và trong một bức thư gửi cho Thừa tướng Saxony, ngài đã tuyên bố người lái ngựa là thần dân của mình. Nguyên do là quan thị trưởng Heinrich von Geusau hảo tâm, trong một chuyến đi dạo dọc sông Spree, đã nói với ngài về con người khác thường nhưng không hề đáng khinh ghét ấy. Trong câu chuyện, để trả lời cho những câu hỏi từ đấng quân vương kinh ngạc kia, Geusau không thể không nhắc đến trách nhiệm liên quan tới Thừa tướng của Brandenburg là Bá tước Siegfried von Kallheim, và do đó làm liên luỵ đến chính Đức Tuyển hầu của công quốc này. Nghe thế, quân vương vô cùng tức giận, triệu Kallheim đến và nhận thấy quan hệ thông gia của vị thừa tướng này với nhà Tronka là nguyên nhân gây ra mọi sự, ngài bèn nổi trận lôi đình cách chức Kallheim ngay lập tức, và bổ nhiệm Heinrich von Geusau thay thế vị đại thần này.
Nhưng tình cờ lúc đó, vua nước Ba Lan do có mâu thuẫn với Đức Tuyển hầu xứ Saxony về việc gì không rõ, đã nhiều lần khẩn thiết kêu gọi Đức Tuyển hầu xứ Brandenburg liên minh chống lại Saxony; và tân thừa tướng Geusau, người rất giỏi việc chớp lấy thời cơ, đã nuôi hy vọng rằng ông ta có thể thực hiện ước nguyện của người bạn Kohlhaas, đòi lại công lý cho người lái ngựa bằng mọi giá mà không làm phương hại đến sự ổn định chung của cả công quốc chỉ vì chiếu cố cho một cá nhân. Thừa tướng Geusau yêu cầu trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho Kohlhaas, không chỉ vì tính chất tùy tiện của việc xử án người lái ngựa – một việc khiến cả thánh thần lẫn phàm nhân đều tức giận; ông ta hứa rằng, nếu Kohlhaas có tội thì y sẽ phải chịu xét xử theo luật lệ của Brandenburg, theo những tội trạng mà Toà án Dresden phải khởi tố thông qua một trạng sư ở Berlin. Thừa tướng Geusau thậm chí đòi phía Saxony phải cấp giấy thông hành cho một trạng sư mà Đức Tuyển hầu Brandenburg sẵn sàng cử đến Dresden, để đòi lại công bằng cho Kohlhaas về những con ngựa của y đã bị tước đoạt trên lãnh thổ Saxony và những hành vi bạo ngược sai trái khác do Lãnh chúa Wenzel von Tronka quá quắt gây ra cho người lái ngựa.
Quan nội thị Kunz, vừa được phong làm Thừa tướng trong đợt sắp xếp lại các chức vụ gần đây ở Saxony, có nhiều lý do để không muốn làm mất lòng Tòa án Berlin trong tình thế khó khăn mà ông ta đã lâm vào. Thay mặt Đức tuyển hầu Saxony, Kunz trả lời bức thư thông báo đã khiến bề trên của mình chán nản; nội dung rằng: “Chúng tôi ngạc nhiên về sự thù địch và trơ tráo khi không cho Tòa án Dresden có quyền xét xử Kohlhaas vì những tội ác kẻ này đã gây ra ở bản quốc và xét xử theo luật pháp của bản quốc, bởi ai cũng biết là kẻ này thậm chí còn sở hữu một bất động sản đáng kể tại kinh đô của chúng tôi, và kẻ này không phủ nhận mình là thần dân Saxony.”
Nhưng do vua Ba Lan đang tập hợp một đạo quân năm nghìn người dọc theo biên giới Saxony để giành thế thượng phong trong cuộc tranh chấp, và Thừa tướng Heinrich von Geusau của Brandenburg đã tuyên bố: “Làng Kohlhaasenbrück, nơi đã cho người lái ngựa cái tên Kohlhaas, nằm ở Brandenburg, và chúng tôi sẽ coi việc thi hành án tử hình đối với người này là vi phạm luật pháp quốc tế,” cho nên Đức Tuyển hầu Saxony đã theo lời khuyên của chính quan nội thị Kunz – người tìm cách rút lui khỏi những chuyện rắc rối này – và triệu Hoàng thân Christian von Meissen đang ở điền trang về triều. Và sau khi nghe mấy lời của vị đại thần biết phải trái này, ngài đồng ý giao Kohlhaas cho tòa án Berlin như đã yêu cầu.
Hoàng thân Meissen dù không hài lòng mấy với các diễn tiến này nhưng buộc phải đảm trách vụ Kohlhaas theo ý muốn của vị chúa công đang bế tắc này. Ông ta hỏi Đức Tuyển hầu bây giờ sẽ phải yêu cầu Berlin xử Kohlhaas theo tội trạng nào, vì họ không muốn nhắc đến bức thư của Nagelschmidt vì hoàn cảnh không rõ ràng của việc viết thư, cũng như không muốn viện dẫn những vụ cướp bóc và đốt phá trước đây vì chính Đức Tuyển hầu đã ban chỉ dụ ân xá mọi sự rồi. Thế là Đức Tuyển hầu quyết định đệ lên Hoàng đế ở Vienna một phúc trình về các cuộc nổi loạn có vũ trang của Kohlhaas ở Saxony, để kêu ca về sự vi phạm hoà bình trật tự của đế chế, và thúc giục Hoàng thượng, người không bị ràng buộc bởi bất kỳ lệnh ân xá nào, hãy cho một công tố viên của Hoàng đế theo đuổi vụ xét xử Kohlhaas ở các tòa án Berlin.
Một tuần sau, người lái ngựa, bị xiềng xích, được dẫn độ bởi Hiệp sĩ Friedrich von Malzahn, người do Đức Tuyển hầu Brandenburg phải đến Dresden cùng với một đội áp giải gồm sáu người. Kohlhaas được đưa trở lại Berlin trên một cỗ xe ngựa cùng với năm đứa con của mình – ông đã khẩn cầu nhà chức trách truy tìm chúng ở khắp các cô nhi viện và trại nuôi trẻ bỏ rơi.
Ngẫu nhiên sao, Đức Tuyển hầu của Saxony, theo lời mời của một viên quan khâm sai, Bá tước Aloysius von Kallheim, người có đất đai cơ ngơi ở vùng biên giới công quốc này, đã đến Dahme săn nai tiêu khiển. Tháp tùng ngài trong cuộc săn bắn lớn này là quan nội thị Kunz cùng phu nhân Công nương Heloise – con gái của quan khâm sai Aloysius và em gái của Thừa tướng vừa bị cách chức của Brandenburg – cùng nhiều cận thần, giới quyền quý thượng lưu, và đám tùy tùng săn bắn. Dưới những mái lều cắm cờ xí dựng trên sườn đồi ở hai bên đường lộ, cả đoàn vương gia ấy, người còn bám bụi của cuộc săn, được các tiểu đồng và quý tộc trẻ phục vụ, đang ngồi ở bàn tiệc, trong tiếng nhạc vui tươi phát ra từ một thân cây sồi. Đúng ngay lúc đó thì cỗ xe tù chở người lái ngựa và đoàn áp giải từ Dresden từ từ đi tới. Do một đứa con nhỏ, yếu ớt của Kohlhaas đã bị ốm, Hiệp sĩ Malzahn đã phải dừng lại ba ngày ở Herzberg, một việc mà anh ta, người chỉ trung thành với quân vương của mình, thấy không cần thiết phải trình báo với chính quyền ở Dresden.
Đức Tuyển hầu, áo mở phanh ngực, chiếc mũ lông chim cắm một nhánh lá linh sam theo kiểu đi săn, ngồi bên cạnh Công nương Heloise, mối tình đầu của ngài thời trẻ. Cảm thấy phấn chấn nhờ không khí vui vẻ của mọi người xung quanh, ngài nói: “Chúng ta hãy mang một cốc rượu xuống cho kẻ bất hạnh kia, dù người đó là ai!” Công nương Heloise, vừa nhìn ngài tình tứ vừa đứng dậy ngay, và lấy bánh trái từ bàn tiệc, chất đầy chiếc khay bạc mà một tên tiểu đồng đã đưa cho. Cả đoàn đã mang theo đủ loại thức giải khát kéo nhau ra khỏi lều thì viên quan khâm sai đi tới, vẻ mặt bối rối, và yêu cầu mọi người dừng lại. Trước câu hỏi lo lắng của Đức Tuyển hầu rằng chuyện gì khiến ông ta khó xử đến vậy, quan khâm sai nhìn về phía quan nội thị, ấp úng trả lời rằng người trong xe chính là Kohlhaas. Ai cũng biết người lái ngựa đã ra đi cả một tuần rồi; nghe tin bất ngờ này, quan nội thị Kunz cầm cốc rượu của mình vừa quay lưng đi về lều vừa đổ hết rượu xuống cát.
Đức Tuyển hầu giận tím mặt, cũng đặt cốc rượu của mình xuống chiếc khay mà một tên tiểu đồng, theo dấu hiệu của quan nội thị, đã hấp tấp mang đến chờ sẵn. Và trong lúc Friedrich von Malzahn vừa kính cẩn chào đoàn người mà anh ta không quen biết vừa thong thả băng ngang qua những chiếc lều dựng hai bên đường, đi về hướng Dahme, thì đoàn đi săn ấy, theo lời mời gọi của quan khâm sai, quay lại lều của họ. Đức Tuyển hầu vừa an vị là quan khâm sai đã phái người tới Dahme mật báo, yêu cầu pháp quan sở tại, nếu có thể, phải lo liệu cho người lái ngựa nhanh chóng tiếp tục hành trình; nhưng vì Hiệp sĩ Malzahn thấy đã muộn nên quyết định ở lại qua đêm, nên chính quyền Dahme đành phải âm thầm thu xếp cho anh ta ở trong một trang trại của pháp quan cạnh đường lộ, khuất sau những lùm cây.
Đến tối, khi đoàn đi săn, được khuây khoả bằng rượu và thưởng thức các món tráng miệng ê hề, đã quên hết chuyện này, quan khâm sai lại đề nghị đi săn tiếp vì có một đàn nai mới xuất hiện. Thế là mọi người hồ hởi đồng ý, và họ, đi từng cặp, tay cầm súng, chạy ào qua các mương rãnh và hàng rào tiến vào khu rừng gần bên. Thế là Đức Tuyển hầu và Công nương Heloise – khoác tay ngài đi theo xem cảnh săn bắn – được một cận vệ dẫn đường, đã kinh ngạc khi thấy mình đi qua sân trang trại nơi Kohlhaas và đội áp giải Brandenburg đang trú qua đêm. Nghe vậy, công nương bèn nói: “Đi đi, thưa Chúa công, hãy tới đó xem!” và tinh nghịch giấu sợi dây chuyền đeo trên cổ ngài cho khuất trong lớp áo, “chúng ta hãy nấp vào trang trại kia trước khi những người đi săn quay lại, và nhìn tận mắt con người kỳ lạ đang ở đó!”
Đỏ mặt, Đức Tuyển hầu nắm lấy tay cô ta và nói, “Heloise, nàng nghĩ sao vậy?” Nhưng khi công nương ngỡ ngàng nhìn ngài đáp rằng “Không ai có thể nhận ra Chúa công trong bộ trang phục thợ săn này!” và kéo ngài đi tiếp; đồng thời, mấy tên hầu cận giúp việc săn bắn, đã thỏa óc tò mò, từ trong ngôi nhà ấy đi ra, bảo rằng, nhờ sự lo xa của quan khâm sai, cả tay hiệp sĩ kia lẫn người lái ngựa đều không biết đoàn người đang ở trong vùng lân cận của Dahme này là ai; Đức Tuyển hầu bèn vui vẻ kéo chiếc mũ sụp xuống mắt và nói: “Hỡi sự điên rồ, ngươi cai trị thế gian, và ngai vàng của ngươi lại là khoé miệng mỹ nhân!”
Kohlhaas đang ngồi trên đống rơm, tựa lưng vào tường, đút bánh mì và sữa cho đứa con đã bị ốm ở Herzberg, khi nhóm người kia bước vào trang trại. Trong lúc người phụ nữ bắt chuyện hỏi thăm ông là ai, và đứa bé bị bệnh gì, ông đã phạm tội gì và bị đưa đi đâu với một đoàn áp giải như vậy; Kohlhaas lột chiếc mũ da trên đầu xuống rồi vừa tiếp tục công việc đang làm, vừa trả lời ngắn gọn nhưng thỏa đáng những câu hỏi của cô ta. Đức Tuyển hầu, đứng sau đám hầu cận phụ việc săn bắn, nhìn thấy một ống nhỏ hình trụ bằng chì buộc dây lụa đeo trên cổ người lái ngựa, do không có chuyện gì để nói, bèn hỏi vật ấy có ý nghĩa gì, và nó chứa gì trong đó.
“Cái ống hình trụ này ư, thưa ngài!?” Ông vừa nói vừa tháo vật đó khỏi cổ, mở nắp và lấy ra một mảnh giấy nhỏ đã niêm phong bằng sáp. “Vật này quả là thứ hiếm có! Bảy tháng trước, sau ngày mai táng vợ tôi, và chắc là ngài biết chuyện, tôi đã từ Kohlhaasenbrück lên đường đi bắt Lãnh chúa Tronka, kẻ đã gây hoạ cho tôi, thì tình cờ đi ngang qua thị xã Jüterbog, tôi đã thấy hai vị Đức Tuyển hầu của Saxony và Brandenburg gặp nhau bàn bạc chuyện gì đó không rõ. Đến chiều thì hai vị đã thỏa thuận xong, họ vừa trò chuyện thân mật vừa dạo qua các đường phố thị xã để đi xem một phiên chợ mới nhóm. Ở phiên chợ, họ gặp một người phụ nữ di-gan ngồi trên một chiếc ghế đẩu, đang xem tinh cầu đồ đoán vận mệnh cho những người đứng chung quanh, và hai vị quân vương vui vẻ hỏi bà ta xem có biết chuyện gì hay ho sẽ xảy đến cho họ không?
“Lúc đó tôi vừa lo cho gia nhân tá túc ở một lữ quán xong xuôi, tình cờ tôi đã có mặt đúng lúc xảy ra chuyện này. Tôi đang đứng ở cổng nhà thờ, phía ngoài đám đông chen chúc, nên không thể nghe được bà ta nói gì với hai vị kia. Mọi người cười và nói thầm với nhau rằng bà ta sẽ không tiết lộ thiên cơ với bất kỳ ai, và họ cố bu lại gần để hóng chuyện bằng được, trong khi tôi, thực sự không phải là tò mò mà là vì muốn tránh chỗ cho những người hiếu kỳ, nên leo lên đứng bừa trên băng ghế đá ở cổng nhà thờ. Tôi vừa mới yên chỗ, tình cờ lại là vị trí thuận lợi, để nhìn thấy hai vị quân vương và người phụ nữ di-gan ngồi trên ghế đẩu trước mặt họ hình như viết điều gì đó ra giấy, thì đột ngột bà ta đứng dậy, chống hai chiếc nạng và nhìn chằm chằm vào đám đông. Bà ta nhìn thẳng vào tôi – kẻ không hề nói một lời nào với bà ta, và trong đời chưa bao giờ quan tâm đến thuật chiêm tinh – rồi bà ta vừa cố chen qua đám đông đi tới chỗ tôi vừa nói: ‘Đó! Nếu các ngài muốn biết, thì hãy đi hỏi người kia!’ Và cùng lúc ấy, thưa ngài, bà ta đã đưa bàn tay xương xẩu ra trao cho tôi mảnh giấy này.
“Và như ngài có thể hình dung được tôi đã sửng sốt ra sao, trong lúc mọi con mắt đều dồn vào tôi, tôi thoái thác: ‘Này bà già, bà cho tôi cái gì vậy?’ Sau một tràng lẩm bẩm những lời khó hiểu mà tôi vô cùng kinh ngạc khi nghe thấy trong đó có tên của chính mình, bà ta nói: ‘Một lá bùa đó, Kohlhaas, người lái ngựa; hãy giữ gìn nó thật kỹ, rồi có ngày nó sẽ cứu mạng ông!’ rồi bà ta đi đâu mất biệt.” Kohlhaas vui vẻ kết thúc câu chuyện: “Cho nên nói thật tình, tôi đã thoát chết ở Dresden, mặc dù đã suýt mất mạng ở đó; còn đến Berlin tôi có may mắn gì hơn không thì thời gian sẽ trả lời.”
Nghe xong, Đức Tuyển hầu ngồi phịch xuống một băng ghế dài; và trả lời câu hỏi quan tâm của công nương Heloise rằng có điều gì bất ổn, ngài đáp: “Không có gì, không có gì cả!” rồi ngã lăn xuống sàn bất tỉnh, trước khi cô ta kịp lao tới đỡ lấy ngài. Hiệp sĩ Malzahn, tình cờ có việc đi vào, anh ta thốt lên: “Lạy Chúa! Có chuyện gì thế?” Công nương hét to: “Mang nước đến đây mau!” Đám hầu cận săn bắn đỡ Đức Tuyển hầu lên và khiêng vào một chiếc giường ở phòng bên; và sự kinh hãi lên đến tột đỉnh khi quan nội thị Kunz – được một tên tiểu đồng gọi về – sau nhiều lần cố làm cho bề trên hồi tỉnh mà vô ích, đã tuyên bố: “Mọi dấu hiệu đều cho thấy Chúa công bị ngập máu!”
Trong lúc người hầu rượu sai người ngựa phi ngựa đến Luckau đưa y sĩ về đây, quan khâm sai đã đưa Đức Tuyển hầu lên xe ngựa ngay khi ngài mở mắt được, và cỗ xe chầm chậm đưa họ đến nhà nghỉ săn bắn của viên quan trong khu vực này. Nhưng ngay cả khi đã đến nơi, chuyến xe ấy cũng khiến Đức Tuyển hầu ngất đi hai lần nữa, cho nên mãi sáng hôm sau, khi y sĩ từ Luckau đã tới, ngài mới phần nào hồi phục, mặc dù có triệu chứng rõ ràng là sẽ phát sốt thương hàn.
Vừa tỉnh trí là Đức Tuyển hầu đã gượng ngồi dậy, và câu hỏi đầu tiên là: “Kohlhaas đang ở đâu?” Hiểu sai ý bề trên, quan nội thị đã nắm tay và bảo ngài có thể yên tâm, sau sự việc lạ lùng và khó hiểu tại trang trại ở Dahme, gã kinh khủng ấy vẫn ở lại nơi đó dưới sự giám sát của đội áp giải Brandenburg. Sau khi khẳng định với Đức Tuyển hầu về sự thông cảm hết mực của y và trấn an là đã nghiêm trách công nương phu nhân vì cô ta đã ngu xuẩn đưa Chúa công đến chỗ người lái ngựa, quan nội thị tiếp tục hỏi rằng điều gì trong cuộc trò chuyện với Kohlhaas đã khiến long thể bất an đến vậy? Đức Tuyển hầu nói ngài phải thừa nhận rằng chính mảnh giấy cất giữ trong một ống bằng chì đeo trên cổ người lái ngựa là nguyên nhân gây ra toàn bộ sự việc khó chịu bất ngờ này. Ngài tiếp tục nói về chuyện đã xảy ra bằng những lời lẽ mà quan nội thị không sao hiểu nổi; rồi đột ngột ngài vừa đưa tay nắm chặt tay quan nội thị vừa quả quyết rằng điều quan trọng nhất đối với ngài là phải có mảnh giấy đó; và yêu cầu quan nội thị lập tức lên ngựa phi đến Dahme và lấy cho được vật ấy, bằng mọi giá.
Không giấu được sự kinh ngạc, quan nội thị trấn an Đức Tuyển hầu rằng nếu mảnh giấy đó có ý nghĩa đến thế thì không có gì trên đời quan trọng cho bằng việc không cho Kohlhaas biết được điều này; bởi vì chỉ cần một lời bất cẩn nào đó khiến y nhận ra điều đó thì dẫu Đức Tuyển hầu có bao nhiêu của cải trên đời cũng không thể khiến kẻ thù hận khôn thoả kia chịu chia tay với mảnh giấy đó. Để xoa dịu Đức Tuyển hầu phần nào, quan nội thị nói thêm rằng họ nên nghĩ ra một cách nào khác để chiếm đoạt vật ấy, có thể là dùng mưu kế nhờ một kẻ trung gian vô tư nào đó làm tay sai, do tên lái ngựa khốn kiếp kia hoàn toàn không quan tâm đến giá trị của mảnh giấy đó nên lại càng có khả năng lấy cắp của y.
Đức Tuyển hầu vừa lau mồ hôi trán vừa hỏi liệu có nên sai người đến Dahme ngay lập tức và ngăn chặn không cho người lái ngựa đi tiếp cho đến khi đã chiếm đoạt được mảnh giấy bằng cách nào đó không? Không tin vào tai mình, quan nội thị trả lời rằng có lẽ bây giờ người lái ngựa đã rời khỏi Dahme, và đã qua biên giới, sang lãnh thổ Brandenburg, nơi mà bất kỳ nỗ lực nào trì hoãn, chứ đừng nói đến đảo ngược hành trình của Kohlhaas đều sẽ gặp khó khăn vô cùng, thậm chí là bất khả thi.
Trong lúc Đức Tuyển hầu im lặng ngả đầu xuống gối trở lại với vẻ tuyệt vọng, quan nội thị hỏi trên mảnh giấy đó đã viết những gì? Và do sự tình cờ lạ lùng và khó hiểu nào mà ngài biết rằng những gì viết trên đó có liên quan đến chính mình? Nhưng lần này, Đức Tuyển hầu chỉ nhìn quan nội thị với ánh mắt ngờ vực; sự sốt sắng phục tùng của viên cận thần trong trường hợp này khiến ngài sinh nghi, và ngài quyết định không trả lời. Ngài cứ nằm im trên giường, tim đập dồn bất an, mắt dường như chỉ nhìn chằm chằm vào chéo khăn đăng-ten đang cầm trên tay; Đức Tuyển hầu có vẻ đắm chìm trong suy nghĩ, và đột ngột ngài bảo quan nội thị cho gọi Stein, hầu cận giúp việc săn bắn, đến gặp, lấy cớ là có việc khác cần bàn. Stein là một quý tộc trẻ tuổi, cường tráng và được việc mà ngài thường sử dụng trong nhiều chuyện bí mật.
Sau khi cho Stein biết sự việc và tầm quan trọng của mảnh giấy đang nằm trong tay Kohlhaas, Đức Tuyển hầu hỏi người hầu cận rằng gã có muốn suốt đời được ngài ưu ái và có thể lấy được mảnh giấy đó trước khi Kohlhaas đến Berlin không? Và khi Stein đã hiểu vấn đề – dù là một tình huống thật bất thường – gã quả quyết sẽ làm đúng theo ý muốn của ngài. Thế là Đức Tuyển hầu bèn ra lệnh cho gã lên ngựa đuổi theo Kohlhaas; và do tiền của có lẽ sẽ không thuyết phục được người này, Stein nên tìm cách gặp mặt và hứa hẹn đánh đổi mảnh giấy đó bằng tính mạng và sự tự do, vâng; thậm chí, nếu Kohlhaas đòi hỏi, thì ngay lập tức, nhưng phải hết sức cẩn thận, chu cấp cho y ngựa, người và tiền bạc, để trốn thoát khỏi đội áp giải Brandenburg.
Hầu cận von Stein, sau khi đã có được thư xác nhận nhiệm vụ do chính tay Đức Tuyển hầu viết, liền cấp kỳ lên đường cùng với một số phụ tá, và cho ngựa phi không ngừng nghỉ nên may mắn đuổi kịp Kohlhaas ở một ngôi làng biên giới, nơi Kohlhaas cùng với năm đứa con và Hiệp sĩ Malzahn hộ tống, đang ăn trưa ngoài trời trước cửa một căn nhà thôn dã. Tự giới thiệu với Malzahn mình là lữ khách tình cờ đi qua đây và tò mò muốn xem mặt người tù khác thường kia, Malzahn sẵn lòng mời gã cùng ăn và làm quen với Kohlhaas. Và do Malzahn cũng phải bận bịu lui tới, sắp xếp công việc, trong lúc toán lính theo cùng đang ăn ở một bàn riêng ở phía bên kia căn nhà, Stein sớm có cơ hội tự giới thiệu với người lái ngựa và giải thích nguyên do tại sao gã phải đến đây.
Người lái ngựa đã biết danh tánh và tước vị của kẻ đã bất tỉnh khi nhìn thấy chiếc ống bằng chì trong trang trại ở Dahme, và để cho nỗi phấn khích vui mừng được trọn vẹn thì ông chỉ cần xem điều bí mật đã được phó thác trong mảnh giấy đó, nhưng vì nhiều lý do ông nhất quyết không mở chiếc ống ra ra chỉ để thoả mãn tò mò. Kohlhaas nói với Stein rằng, xét đến sự đối xử hèn hạ và tàn nhẫn mà ông phải chịu ở Dresden trong khi ông đã sẵn sàng nhân nhượng bằng mọi cách có thể nghĩ ra, ông nhất định giữ lại mảnh giấy đó.
Trước câu hỏi của Stein rằng điều gì khiến ông khước từ một cách lạ lùng như vậy, bất kể sự bảo đảm tính mạng và tự do của bản thân, Kohlhaas đáp: “Thưa tôn ông! Nếu Chúa công của ông mà đến gặp tôi và nói rằng ‘Ta sẵn sàng hủy diệt chính bản thân ta và toàn bộ triều thần đã giúp ta duy trì vương quyền,’ – hủy diệt, ông biết đấy, đó là điều mong ước lớn nhất trong lòng tôi – thì tôi cũng vẫn không trao cho ông ta mảnh giấy quý báu hơn cả sinh mệnh vua chúa này, và tôi sẽ nói rằng ‘Nếu muốn, ông cứ việc đưa tôi lên đoạn đầu đài, nhưng tôi có thể làm cho ông phải đau khổ,’ và nhất định tôi sẽ làm như thế!” Dứt lời, mặt đầy sát khí, Kohlhaas gọi một người lính đến cho anh ta phần thức ăn vẫn còn nhiều trên mâm. Và suốt thời gian còn lại, ông vẫn ngồi đó nhưng làm như không biết đến sự có mặt của Hầu cận von Stein, và chỉ đến khi lên xe đi tiếp ông mới ném cho gã ta quay một cái nhìn cáo biệt.
Sau khi nghe bẩm báo việc này, bệnh tình của Đức Tuyển hầu đâm ra trầm trọng thêm, đến mức trong suốt ba ngày nguy cấp, vị y sĩ từ Luckau đến lo sợ rằng tính mạng của Chúa công dường như nghìn cân treo sợi tóc. Cuối cùng, sau mấy tuần lễ liệt giường, và chỉ nhờ vào thể tạng mạnh khoẻ, Đức Tuyển hầu mới khoẻ lại, ít nhất là đủ sức để mọi người có thể đưa ngài lên một chiếc xe ngựa, quấn kín trong chăn gối, và đưa ngài trở lại triều đình ở Dresden. Về tới kinh thành là ngài cho triệu ngay Hoàng thân Christian von Meissen đến và hỏi thăm tình hình về việc phúc trình của Ủy viên Quốc vụ Eibenmayer, người mà họ đã có ý định cử làm công tố viên đi đến Vienna để xin Hoàng đế cho khởi tố Kohlhaas vì tội phá hoại hoà bình trật tự của đế chế.
Hoàng thân đáp rằng theo chỉ dụ để lại trước khi Đức Tuyển hầu lên đường đến Dahme, ủy viên này đã đi Vienna ngay sau khi Zäuner đến Dresden – Zäuner là người mà Đức Tuyển hầu của Brandenburg đã cử bào chữa cho người lái ngựa trong vụ kiện Lãnh chúa Wenzel von Tronka. Đức Tuyển hầu đỏ mặt, đi tới bàn giấy của ngài, hơi phật ý vì sự hấp tấp này, bởi vì theo như ngài nhớ là đã dặn việc Eibenmayer đi Vienna phải chờ những mệnh lệnh chi tiết và chính xác hơn rồi mới tiến hành, do là ngài cũng cần nói chuyện với Tiến sĩ Luther, người đã nghĩ ra những điều kiện ân xá. Không giấu được nỗi bất bình, ngài bực tức chất mớ giấy tờ và tài liệu trên bàn làm việc thành một chồng cao.
Hoàng thân im lặng nhìn Đức Tuyển hầu một lúc rồi nói rằng ông ta rất tiếc nếu đã khiến ngài phật ý về việc này; nhưng Hoàng thân có thể trình cho ngài xem quyết định của Nội các buộc ông ta phải cử trạng sư đi Vienna vào thời điểm đã ấn định. Meissen cũng nói thêm rằng trong Nội các không hề nhắc đến việc cần bàn thêm với Tiến sĩ Luther; việc hội ý vị giáo sĩ ấy về chuyện can thiệp cho Kohlhaas thì lúc trước có thể có ích, nhưng bây giờ không cần thiết nữa vì triều đình Saxony trước mắt bàn dân thiên hạ đã vi phạm lệnh ân xá, bắt giữ người lái ngựa, và cho áp giải y đến Brandenburg để tuyên án và trừng phạt.
Đức Tuyển hầu nói rằng việc đáng tiếc là đã phái Eibenmayer đi quá sớm không hệ trọng lắm; nhưng ngài mong muốn là người này tạm thời không đảm nhận vai trò công tố viên ở Vienna vào lúc này, và yêu cầu Hoàng thân sai người tốc hành đến đó để thông báo cho Eibenmayer như thế. Meissen đáp rằng rất tiếc Chúa công đã ra lệnh này chậm mất một ngày, hôm nay ông ta đã nhận được một phúc trình nêu rõ việc Eibenmayer đã trình diện với tư cách trạng sư và đã đệ trình vụ án trước triều đình Vienna.
Trước câu hỏi bàng hoàng của Đức Tuyển hầu rằng việc này sao lại có thể diễn ra nhanh chóng như vậy, Hoàng thân trả lời rằng ba tuần lễ đã trôi qua kể từ khi Eibenmayer lên đường, và người này được lệnh buộc phải hoàn thành công việc càng sớm càng tốt ngay sau khi đến Vienna. Theo Hoàng thân, sự chậm trễ sẽ càng đáng tiếc hơn trong trường hợp này vì trạng sư Zäuner của Brandenburg đang ráo riết thúc đẩy việc khởi tố Wenzel von Tronka, và đã xin lệnh tạm thời của tòa án để đưa mấy con ngựa ở chỗ người mua ngựa già về để giúp cho chúng phục hồi sức khỏe lại, bất chấp mọi lý lẽ của bên bị đơn.
Nghe thế, Đức Tuyển hầu hốt hoảng trong lòng, ngài nói: “Không hề chi. Việc đó chẳng có nghĩa lý gì!” rồi quay lại nhìn Hoàng thân, ngài hỏi chiếu lệ về tình hình ở Dresden trong thời gian ngài vắng mặt. Và không giấu được nỗi xúc động trong lòng, ngài khoát tay cho Meissen cáo lui. Trong ngày hôm đó, Đức Tuyển hầu đã ra chỉ dụ yêu cầu Meissen giao hết hồ sơ vụ án Kohlhaas, lấy cớ rằng việc này đã trở nên quan trọng về mặt chính trị đến mức ngài muốn đích thân đảm trách. Và không thể chịu đựng nổi cái ý tưởng là mình đang tiêu diệt kẻ duy nhất có thể cho biết bí mật của mảnh giấy đó, Đức Tuyển hầu đã viết một thư riêng gửi cho Hoàng đế, khẩn thiết xin tạm thời hủy bỏ những cáo buộc của Eibenmayer đã đệ trình về Kohlhaas, vì những lý do quan trọng mà sau này Đức Tuyển hầu sẽ nói rõ.
Hoàng đế, trong một bức thư do Đổng lý văn phòng soạn thảo, đã hồi âm rằng việc đổi ý đột ngột này khiến gây ngạc nhiên hết sức, rằng chính việc trình báo của Công quốc Saxony đã khiến vụ án Kohlhaas trở thành vấn đề của toàn bộ Thánh chế La Mã; rằng như vậy, Hoàng đế, người cai trị toàn bộ đế chế, có trách nhiệm phải khởi kiện vụ án này với Toà án của Công quốc Brandenburg; rằng hội thẩm Franz Müller đã đến Berlin với tư cách là trạng sư của Hoàng đế để đòi xét xử Kohlhaas vì tội phá hoại hòa bình trật tự chung, và đơn kiện bây giờ không thể rút lại được, và theo pháp luật, sẽ phải tiến hành tiếp tục.
Lá thư này đã đập tan mọi hy vọng của Đức Tuyển hầu; và ngài khổ sở tột cùng khi sau đó nhận được mật thư từ Berlin của các gián điệp báo cáo về việc khởi kiện ở đó, và biết rằng, bất kể mọi nỗ lực của trạng sư bào chữa, Kohlhaas sẽ khó tránh khỏi đoạn đầu đài. Thế là vị quân vương khốn khổ này quyết định cố gắng thêm một lần nữa, và ngài đích thân viết thư xin Đức Tuyển hầu của Brandenburg tha mạng cho người lái ngựa. Ngài viện cớ rằng lệnh ân xá ban cho Kohlhaas thực tế đã miễn luôn án tử hình đối với y; ngài quả quyết rằng bất kể hình thức nghiêm trọng trong việc xét xử người lái ngựa ở Saxony, ngài không hề có ý định bắt y phải chịu chết; và ngài nói rằng sẽ hết sức đau lòng nếu như sự bảo vệ mà công quốc Brandenburg đã dành cho người lái ngựa ở Berlin rốt cuộc lại không ngờ gây ra cho kẻ này nhiều bất lợi hơn cả trường hợp y vẫn ở lại Dresden và chịu xét xử theo luật pháp công quốc Saxony.
Thấy yêu cầu này rất mơ hồ và khó hiểu, Đức Tuyển hầu Brandenburg phúc đáp rằng sự đòi hỏi tiến hành gắt gao từ phía trạng sư của Hoàng đế đã buộc phía Brandenburg, dẫu có muốn, cũng không thể làm trái pháp luật. Thư cũng nói rằng sự lo ngại của Đức Tuyển hầu Saxony trong vụ này đã đi quá xa, bởi vì bên khởi kiện trước Tòa án ở Berlin về những tội ác đã được miễn trừ, lại không phải là triều đình Saxony, nơi ban hành lệnh ân xá, mà là từ chính Hoàng đế, người không liên can gì đến việc này. Thậm chí thư còn viết rằng, xét đến việc Nagelschmidt lộng hành tàn ác không dứt, những cuộc khủng bố hết sức táo tợn của kẻ này giờ đã lan rộng đến lãnh thổ Brandenburg, thì lại càng phải có một điển hình để răn đe; và yêu cầu Đức Tuyển hầu Saxony nếu không đồng tình với những điều này thì phải thỉnh cầu trực tiếp với Hoàng đế, bởi vì nếu muốn một bản án khoan hồng cho Kohlhaas thì phải có chiếu chỉ của Hoàng đế.
Tức giận và tuyệt vọng thất bại ê chề, Đức Tuyển hầu liền ngã bệnh trở lại, và khi quan nội thị đến thăm một sáng nọ, ngài đã cho y xem bản lưu các bức thư mà ngài đã gửi đến các tòa án ở Vienna và Berlin, cố hết sức để ít ra cũng kéo dài được mạng sống của Kohlhaas và nhờ đó có thêm thời gian để chiếm đoạt mảnh giấy trong tay người lái ngựa. Quan nội thị quỳ xuống trước mặt Đức Tuyển hầu và nhân danh những điều thiêng liêng và cao quý nhất, cầu xin quân vương hãy cho y biết nội dung viết trên mảnh giấy đó. Đức Tuyển hầu bảo y đóng chặt cửa rồi ngồi xuống bên cạnh giường ngài; và sau khi nắm lấy bàn tay y và đặt lên ngực mình, ngài thở dài bắt đầu nói:
“Tôi chắc rằng quý phu nhân đã cho ông biết chuyện Đức Tuyển hầu của Brandenburg và tôi, vào ngày thứ ba của cuộc hội đàm ở Jüterbog, đã gặp một bà thầy bói di-gan; và Đức Tuyển hầu, vốn là người không tin bói toán, đã quyết định đùa bỡn một chút cho vui với tài chiêm tinh của bà ta trước mặt mọi người, bởi vì những người bu quanh đang ca tụng quá mức khả năng của bà ta. Thế là ông ấy bèn khoanh tay đi tới chiếc bàn của bà thầy bói và yêu cầu bà ta tiên đoán một sự việc có liên quan đến mình, một điều sẽ xảy ra ngay trong ngày hôm ấy để chứng minh tài nghệ của bà ta, nếu không thì dẫu bà ta là thánh thần giáng thế đi nữa thì có nói gì ông ấy cũng không tin.
“Bà thầy bói đó vừa nhìn chúng tôi từ đầu đến chân, vừa tiên đoán rằng con nai sừng lớn mà con của người làm vườn đang nuôi trong hoa viên sẽ đến gặp chúng tôi trước khi chúng tôi rời khỏi khu chợ này. Ông phải biết là con nai này, vốn được dể dành làm thịt ở Dresden, được nuôi trong một khu chuồng rào kín, chốt chặt, dưới bóng những cây sồi lớn, cùng với những bầy gà vịt và mấy con thú nhỏ, còn cả hoa viên và những khu vườn phía ngoài đều được khóa kỹ hết, thì không thể tưởng tượng được bằng cách nào mà con nai, như lời tiên đoán quái lạ kia, sẽ đến gặp chúng tôi ở khu chợ ấy được. Dù vậy, e là sẽ có thủ đoạn nào đây, Đức Tuyển hầu Brandenburg, sau khi bàn nhanh với tôi, đã quyết định loại trừ vĩnh viễn mọi chuyện có thể xảy ra, và ra lệnh mổ thịt con nai ngay tức khắc để ngày mai đãi tiệc.
“Rồi quay sang người đàn bà di-gan mà chúng tôi đã công khai bàn bạc lớn tiếng cho bà ta nghe thấy, ông ấy nói: ‘Chà, bây giờ bà đoán vận mệnh cho ta đi?’ Bà ta nhìn vào bàn tay ông ấy rồi nói: ‘Mừng cho Đức Tuyển hầu! Chúa công sẽ trị vì rất lâu, và dòng họ của ngài sẽ tiếp tục kế vị rất lâu, và những hậu duệ kế vị đều danh tiếng lẫy lừng, và có quyền lực hơn mọi các vua chúa khác trong thiên hạ!’
“Đức Tuyển hầu Brandenburg trầm ngâm nhìn bà thầy bói, rồi dợm bước về phía tôi, cao giọng nói rằng ông ấy bây giờ lấy làm tiếc vì đã sai người thừa lệnh đi phá hoại lời tiên đoán ban nãy; và trong lúc tùy tùng của ông ấy hò reo vui mừng và trút tiền như mưa cho bà thầy bói, Đức Tuyển hầu vừa lấy trong ví ra cho thêm một đồng tiền vàng, vừa hỏi bà ta rằng vận mệnh của tôi có huy hoàng giống như là bà ta đã tiên đoán cho ông ấy không.
Người đàn bà di-gan mở chiếc rương ở bên cạnh, cẩn thận sắp xếp tiền theo từng loại, cất hết vào đó, rồi giơ tay lên về phía mặt trời, như thể bị chói nắng, bà ta nhìn tôi. Trong lúc đưa bàn tay cho bà ta xem xét, tôi lặp lại câu hỏi của Đức Tuyển hầu Brandenburg và nói đùa với ông ấy: ‘Có vẻ như bà ta không thấy được điều gì đáng mừng cho tôi.’ Rồi người đàn bà di-gan cầm đôi nạng lên, từ từ nhấc người khỏi ghế, tiến sát lại chỗ tôi và khum tay, thì thầm thật rõ vào tai tôi: ‘Đúng vậy!’
“Tôi bối rối thốt lên, ‘Ra là thế,’ và thối lui trong lúc bà ta quay lại ghế của mình, ánh mắt lạnh lùng trơ trơ như đá cẩm thạch. Rồi tôi hỏi, ‘Hiểm họa cho dòng họ của ta sẽ từ đâu đến?’ Bà thầy bói lấy ra một mảnh giấy và một mẩu chì than, tréo hai chân lại, bà hỏi có cần viết ra cho tôi không? Rủi thay, trong hoàn cảnh này tôi đâu còn lựa chọn nào khác, tôi bèn trả lời: ‘Có! Hãy viết đi!’ Và bà ta nói: ‘Được rồi, tôi sẽ viết ra cho ngài ba điều: tên của vị vua chúa cuối cùng trong dòng họ ngài, ngày người này sẽ mất vương quốc, và tên của kẻ sẽ dùng binh lực đoạt ngôi báu.’
“Làm xong việc này trước sự chứng kiến của đám đông, bà ta đứng dậy, niêm phong mảnh giấy bằng chất sáp dính mà bà ta hà hơi thổi bằng cái miệng nhăn nheo, rồi dùng chiếc nhẫn chì đeo trên ngón tay giữa khằn chặt lại. Và khi tôi đang với tay ra lấy, tò mò không sao kể xiết, bà ta đột nhiên nói: ‘Không được, thưa Chúa công,’ và bà ta quay lại, cầm một cây nạng lên: ‘Nếu muốn ngài hãy đến người đàn ông đội mũ gắn lông chim đang đứng trên băng ghế đằng kia, phía sau mọi người ở cổng nhà thờ!’ Và nói xong, trước khi tôi kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, thì bà ta bỏ mặc tôi đứng ở quảng trường sửng sốt đến nghẹn lời, cầm lấy chiếc rương sau lưng lên cặp dưới nách, rồi bà ta biến mất trong đám đông, và tôi không thể nào nhìn thấy bà ta nữa.
“Đúng lúc đó, phải nói là tôi nhẹ cả lòng, người hiệp sĩ mà Đức Tuyển hầu Brandenburg phái đi về lâu đài của ông ấy lại xuất hiện và vừa cười vừa nói rằng con nai ấy đã bị hai tay thợ săn giết chết và kéo vào nhà bếp trước mắt anh ta. Đức Tuyển hầu, vui vẻ khoác tay tôi để đưa ra khỏi quảng trường, ông ấy nói: ‘Hay lắm! Chuyện tiên tri đó chỉ là trò lừa rẻ tiền, chẳng đáng để phí thời gian và tiền bạc của chúng ta.’ Chúng tôi kinh ngạc biết bao khi ông ấy chưa nói dứt lời thì một tiếng hét vang lên trên quảng trường, và mọi con mắt đều đổ dồn vào con chó lớn của người đồ tể đang từ sân lâu đài chạy đến. Nó đã vào nhà bếp ngoạm cổ con nai chưa kịp xẻ thịt và chạy đi cùng chiến lợi phẩm đó, và đuổi theo sau là đám gia nhân và đầy tớ. Con chó dừng lại trước mặt chúng tôi không đầy ba bước, và thả xác con nai xuống đất.
“Như vậy là lời tiên tri của người đàn bà di-gan đã ứng nghiệm và có lẽ mọi điều khác mà bà ta đã tiên đoán đều có giá trị: con nai, mặc dù đã chết, đã đến gặp chúng tôi ở khu chợ. Một tia sét trên trời giáng xuống vào một ngày mùa đông cũng không thể nào kinh hoàng hơn cảnh tượng đó. Và nỗ lực đầu tiên của tôi, ngay sau khi thoát khỏi đám người bu quanh, là tìm kiếm người đàn ông đội chiếc mũ gắn lông chim mà bà thầy bói di-gan đã nói cho tôi biết; nhưng những người tôi phái đi làm việc đó trong suốt ba ngày trời không một ai cho tôi biết được chút tin tức nào về hắn ta. Và bây giờ, Kunz thân mến ơi, tôi đã tận mắt nhìn thấy người đó mấy tuần trước đây, trong trang trại ở Dahme.”
Nói xong, ngài buông tay quan nội thị ra, và lau mồ hôi trán, ngã vật xuống giường trở lại. Quan nội thị hẳn là cảm thấy có phản đối quan điểm của bề trên cũng chỉ phí công bèn yêu cầu ngài suy xét cách nào đó để lấy được mảnh giấy rồi phó mặc Kohlhaas cho số phận. Nhưng Đức Tuyển hầu nói ngay rằng ngài không biết làm sao, mặc dù ý nghĩ sẽ mất mảnh giấy và để cho những lời tiên tri bí mật ấy đi xuống mồ cùng với người lái ngựa khiến ngài gần như tuyệt vọng. Khi nghe hỏi đã thử tìm bà thầy bói di-gan chưa, Đức Tuyển hầu cho biết chính quyền Saxony, theo một mệnh lệnh mà ngài đã ban hành với một nguyên cớ giả tạo, vẫn tìm kiếm bà ta ở mọi địa điểm công cộng trên khắp công quốc này; mặc dù, vì những lý do mà ngài không muốn nói rõ, ngài cho rằng bà ta thậm chí không còn ở Saxony nữa.
Tình cờ là lúc đó quan nội thị Kunz cần phải đi Berlin vì vợ ông được thừa kế một số tài sản đáng kể ở Neumark từ Bá tước Kallheim, cựu Thừa tướng Brandenburg vừa qua đời sau khi bị cách chức. Suy nghĩ thật nhanh, quan nội thị hỏi Đức Tuyển hầu, người mà Kunz hết lòng tận tụy, liệu ngài có cho phép ông ta toàn quyền theo đuổi việc này ở đó không? Đức Tuyển hầu đặt nắm tay Kunz đặt lên ngực mình, đáp rằng: “Cứ nghĩ ông là tôi, và lấy mảnh giấy đó cho tôi!” Thế là quan nội thị thu xếp công việc riêng, quyết định khởi hành sớm hơn vài ngày, và để vợ ở lại, ông đi Berlin một mình cùng vài người hầu.
Lúc này Kohlhaas, như đã nói, đang ở Berlin, và theo một mệnh lệnh đặc biệt của Đức Tuyển hầu Brandenburg, ông và năm đứa con được đưa đến một khu nhà giam của giới quý tộc. Trạng sư từ Vienna vừa đến là Kohlhaas bị đưa tòa ngay để xử tội đã phá hoại hoà bình của đế chế. Khi ông phản bác rằng việc dấy loạn của mình ở Saxony cùng các hành động bạo lực liên quan đã được miễn tội do những thoả thuận đã cam kết ở Lützen với Đức Tuyển hầu Saxony, thì được thông báo rằng Hoàng đế, người đã phái trạng sư buộc tội người lái ngựa, không liên quan gì đến lệnh ân xá đó; và Kohlhaas cũng được biết rằng, khác với ở Saxony, ở đây ông sẽ được bảo đảm có kết quả thỏa đáng cho vụ kiện Lãnh chúa Wenzel von Tronka. Sau khi được giải thích, ông bằng lòng chấp nhận.
Vào đúng ngày quan nội thị Kunz đến Berlin, tòa án đang đưa ra phán quyết cuối cùng, và người lái ngựa bị kết án xử trảm; một phán quyết mà không một ai, xét đến tính chất phức tạp của vụ án này, lại tin rằng sẽ được thực thi, dù đó là một bản án có khoan dung. Phải, cả kinh thành này, nghĩ đến lòng ưu ái mà Đức Tuyển hầu Brandenburg vốn dành cho Kohlhaas, đều thầm mong là sẽ có một sắc lệnh giảm án tử thành một án tù khắt khe dài hạn.
Quan nội thị thấy không thể chần chừ được nữa nếu muốn hoàn thành nhiệm vụ mà bề trên đã giao phó cho mình. Một buổi sáng, ông ta quyết định cố tình xuất hiện trong quan phục triều đình cho Kohlhaas nhìn thấy khi người lái ngựa đang đứng trước cửa sổ nhà giam vô tư nhìn ngắm người qua lại dưới đường. Thấy động tác quay đầu đột ngột của người tù, nhất là bàn tay của kẻ ấy lại bất giác đưa lên ngực sờ vào chiếc bùa hộ mệnh, quan nội thị hài lòng kết luận là Kohlhaas đã nhìn thấy mình. Ông ta cho rằng những gì diễn ra trong tâm trí người lái ngựa ngay lúc đó là đủ để ông ta mạnh dạn thực hiện bước tiếp theo của việc chiếm đoạt mảnh giấy.
Quan nội thị cho gọi một bà già thọt chân chống nạng bán dạo đồ cũ trên đường phố Berlin, kẻ mà ông ta đã chú ý trong đám những người bán rong tương tự. Ông ta thấy bà già này có tuổi tác và bề ngoài khá giống với bà thầy bói mà Đức Tuyển hầu đã mô tả. Và cho rằng Kohlhaas sẽ không nhớ được diện mạo của người đàn bà di-gan đã đưa cho mảnh giấy trong cuộc gặp gỡ chóng vánh, quan nội thị quyết định dùng bà già bán rong thay thế và cho người này giả dạng làm bà thầy bói kia để lừa Kohlhaas, nếu được.
Để chuẩn bị mưu kế này, quan nội thị cho bà già thọt biết mọi chuyện đã xảy ra giữa Đức Tuyển hầu và bà thầy bói di-gan ở Jüterbog, đặc biệt nhấn mạnh ba chi tiết được viết ra trên mẩu giấy bởi vì ông ta không thể biết chắc kẻ giả danh này sẽ thuyết phục được Kohlhaas đến mức nào. Và sau khi chỉ dẫn cho bà già thọt những điều cần phải tiết lộ, một cách mơ hồ và bí hiểm, với Kohlhaas rằng đã có những âm mưu nào đó sẽ dùng thủ đoạn hoặc vũ lực để đoạt lấy mảnh giấy hết sức quan trọng đối với người cai trị Saxony, quan nội thị dặn bà già phải yêu cầu Kohlhaas giao mảnh giấy đó cho bà ta tạm giữ trong những ngày đầy bất trắc này, viện cớ rằng mảnh giấy sẽ bị đánh cắp nếu nằm trong tay người lái ngựa.
Được hứa hẹn sẽ trọng thưởng, bà già gầy gò, rách rưới ấy bèn đòi quan nội thị phải đưa trước một phần và bằng lòng làm đúng những gì đã yêu cầu. Do bà mẹ của mã phu Herse – gia nhân của Kohlhaas đã chết ở Mühlberg – thỉnh thoảng có ghé thăm ông, và bà già thọt nhờ có quen biết với bà mẹ ấy từ mấy tháng nay nên, vào một ngày sau đó, bà ta có thể đút lót chút ít cho quản ngục để vào được chỗ giam giữ người lái ngựa.
Nhưng khi bà già chống nạng bước vào, Kohlhaas nhìn thấy chiếc nhẫn niêm phong trên ngón tay và một xâu chuỗi san hô đeo quanh cổ là ông nhận ra ngay đó chính là bà thầy bói di-gan đã giao cho ông mảnh giấy ở Jüterbog. Khả năng xảy ra và thực tế không phải lúc nào cũng gặp nhau, nhưng chuyện mà chúng tôi sắp kể ra đây lại chính là sự tình cờ đó, còn quý vị độc giả nào không tin thì có quyền hồ nghi. Khi chọn một người ngoài đường để giả dạng làm bà thầy bói, quan nội thị đã phạm một sai lầm to lớn khi chọn đúng ngay người phụ nữ di-gan bí ẩn đó chứ không ai khác. Đằng nào đi nữa, bà già ấy vừa rướn thẳng người trên đôi nạng vừa vuốt má những đứa bé đang nép sát quanh cha vì hoảng sợ vì bộ dạng kỳ dị của khách lạ; và cho Kohlhaas biết rằng bà ta đã từ Saxony trở về Brandenburg được một thời gian rồi, rằng khi nghe quan nội thị bất cẩn dò la khắp phố phường Berlin về bà thầy bói di-gan đã ở Jüterbog mùa xuân trước, bà ta đã lập tức đến gặp vị quan kia, và rồi lấy một cái tên giả, bà ta đã tình nguyện làm công việc mà vị quan lớn đang cần.
Người lái ngựa nhận ra vẻ giống nhau kỳ lạ giữa bà ta và Lisbeth, người vợ quá cố đáng thương của ông, giống đến mức khiến ông muốn hỏi liệu bà già kia tình cờ ngẫu nhiên có phải là bà ruột của vợ ông chăng – không chỉ giống về nét mặt mà giống cả hai bàn tay, dù xương xẩu nhưng vẫn đẹp, và nhất là cử chỉ khoát tay khi nói chuyện, khiến ông nhớ Lisbeth vô cùng; ông còn thấy bà ta có một nốt ruồi trên cổ giống hệt như vợ mình. Người lái ngựa mời bà già ngồi, trong lúc bao ý nghĩ quay cuồng trong tâm trí; ông hỏi căn cớ gì mà lại đưa bà ta đến gặp ông vì công việc của quan nội thị.
Trong khi con chó già của Kohlhaas đánh hơi quanh hai đầu gối bà thầy bói, và vẫy đuôi mừng khi được bà ta vuốt đầu, bà già di-gan trả lời ông về những việc mà quan nội thị giao phó cho bà. Đó là cho người lái ngựa biết rằng mảnh giấy đó chứa đựng lời giải bí ẩn của ba vấn đề quan trọng liên quan đến vương triều Saxony, báo trước cho ông biết về một sứ giả hiện ở Berlin này đang âm mưu chiếm đoạt mảnh giấy, và lấy cớ đó mà yêu cầu ông giao mảnh giấy đó cho bà giữ thì mới an toàn. Nhưng mục đích thực sự của bà ta khi tìm gặp Kohlhaas là để nói với ông rằng nguy cơ dùng thủ đoạn hay vũ lực để chiếm đoạt mảnh giấy trong tay ông chỉ là chuyện bịa đặt, không có thật. Dưới sự bảo vệ của Đức Tuyển hầu Brandenburg như hiện tại, người lái ngựa không có gì phải lo sợ về điều đó. Mảnh giấy nằm trong tay Kohlhaas chắc chắn sẽ an toàn hơn là giao nó cho bà ta, và ông tốt nhất không nên giao nó cho bất kỳ ai vì bất kỳ lý do gì. Rồi bà ta kết luận rằng, theo ý bà, cách khôn ngoan nhất là ông hãy sử dụng mảnh giấy đó cho mục đích mà bà đã nói với ông lúc ở phiên chợ Jüterbog, nghe theo đề nghị mà Hầu cận von Stein đã gợi ý với ông ở biên giới, và giao mảnh giấy, lúc đó sẽ không còn giá trị gì đối với ông nữa, cho Đức Tuyển hầu Saxony để đổi lấy mạng sống và tự do.
Vui mừng trước khả năng có thể đả thương trí mạng vào gót chân của kẻ thù ngay khi chính mình bị giày xéo trong cát bụi, Kohlhaas trả lời: “Không đời nào, bà mẹ ơi, không đời nào có chuyện đó.” Rồi ông nắm chặt hai bàn tay nhăn nheo của bà, nóng lòng muốn biết những câu trả lời hệ trọng trên mảnh giấy.
Nãy giờ đã bế thằng bé út của Kohlhaas đang chơi dưới sàn lên và ôm trong lòng mình, bà thầy bói di-gan nói: “Có lẽ không đời nào, Kohlhaas, người lái ngựa ơi! Nhưng nếu phải làm vì thằng bé tóc vàng xinh đẹp này thì sao?” Dứt lời, bà ta liền cười đùa với thằng bé, và ôm ghì lấy nó mà hôn, trong lúc thằng bé mở to mắt nhìn bà ta; rồi bà thò bàn tay nhăn nheo vào túi lấy ra một quả táo cho đứa bé.
Kohlhaas bối rối nói rằng bản thân những đứa trẻ này khi lớn lên, sẽ khen ngợi ông vì việc làm này, và ông, vì chúng và vì con cái của chúng, không thể nghĩ ra cách nào tốt hơn là giữ lại mảnh giấy đó. Ông nói thêm rằng, sau những gì đã kinh qua, ai dám bảo đảm là ông sẽ không bị lừa gạt nữa, và ông sẽ không giao mảnh giấy cho Đức Tuyển hầu một cách vô nghĩa, giống như việc ông đã giải tán đội quân của mình ở Lützen? “Kẻ nào đã một lần thất hứa với tôi,” ông nói, “thì tôi sẽ không nói một lời nào với hắn nữa; và chỉ có một yêu cầu dứt khoát và rõ ràng của bà, bà mẹ ơi, thì mới có thể chia lìa tôi với mảnh giấy mà, phi thường thay, nhờ nó tôi được mãn nguyện trả thù cho bao khổ đau phải chịu.”
Bà thầy bói vừa đặt đứa trẻ xuống sàn vừa nói rằng Kohlhaas cũng có phần đúng và ông nên làm theo ý mình. Nói xong bà ta chống nạng và chuẩn bị kiếu từ. Kohlhaas lặp lại câu hỏi của ông về nội dung của mảnh giấy bí ẩn thì bà ta chỉ hấp tấp trả lời rằng nếu tò mò thì cứ việc mở ra xem. Kohlhaas còn muốn hỏi biết bao điều khác trước khi bà ta ra đi: bà là ai, làm thế nào bà có được cái tài tiên tri đó, hà cớ gì bà lại không chịu đưa cho Đức Tuyển hầu mảnh giấy mà bà đã viết cho ông ta, và có cả hàng ngàn người trong thiên hạ, sao bà lại giao nó cho ông, kẻ chưa bao giờ quan tâm đến thuật chiêm tinh của bà?
Đúng lúc đó bỗng vang lên tiếng chân của mấy cảnh binh đang đi lên cầu thang; bà thầy bói phát hoảng vì sợ bị bắt gặp trong căn phòng này bèn đã vội đáp: “Tạm biệt, Kohlhaas, tạm biệt. Nếu còn gặp lại nhau, tôi sẽ trả lời mọi câu hỏi của ông.” Quay ra cửa, bà ta gọi to “Tạm biệt, các bé con dễ thương, tạm biệt!” rồi bà ta hôn từng đứa một và ra đi.
Trong lúc này, Đức Tuyển hầu Saxony, bị ám ảnh vì những ý nghĩ u ám, đã triệu hai nhà chiêm tinh danh tiếng lẫy lừng khắp công quốc này là Oldenholm và Olearius đến hỏi ý kiến họ về nội dung của mảnh giấy bí ẩn và những điềm báo cho bản thân ông ta và những người thừa kế. Sau nhiều ngày nghiên cứu cặn kẽ trong tòa tháp lâu đài ở Dresden, hai nhà chiêm tinh vẫn bất đồng ý kiến về việc lời tiên tri đó liên quan đến các thế kỷ tương lai hay là thời gian hiện tại, lúc mà quan hệ xung khắc với vua Ba Lan vẫn chưa ngã ngũ cũng có thể là một dự báo. Vì thế, việc tranh cãi uyên thâm của họ thay vì làm dịu đi thì chỉ càng làm trầm trọng thêm nỗi bất an, chứ đừng nói là sự tuyệt vọng, của đấng quân vương bất hạnh này, và cuối cùng đã khiến ngài quẫn trí đến mức không thể chịu đựng nổi.
Chưa hết, quan nội thị Kunz lại chọn đúng lúc này để bảo Công nương Heloise, người đang chuẩn bị đi Berlin theo chồng, tìm cách khéo léo để báo với Đức Tuyển hầu trước khi lên đường rằng những nỗ lực của Kunz với bà già thọt chân đã phản tác dụng, và bà ta đã biến mất cùng với niềm hy vọng lấy được mảnh giấy trong tay Kohlhaas, kẻ đã nhận bản án tử hình do đích thân Đức Tuyển hầu Brandenburg ký tên sau một cuộc kiểm tra tường tận mọi hồ sơ của vụ án; và ngày xử trảm đã được ấn định vào thứ Hai, sau ngày Chúa Nhật lễ Lá.
Nhận được tin này, Đức Tuyển hầu, cõi lòng tan nát vì đau khổ và hối tiếc như một kẻ đã hoàn toàn thất bại, tự giam mình trong phòng suốt hai ngày, hết muốn sống, không buồn ăn uống, và đột ngột đến ngày thứ ba, ngài gửi một bức thư vắn tắt cho triều đình, báo rằng ngài sẽ rời khỏi Dresden, đến Dessau để đi săn. Vị tuyển hầu này thực sự đã đi đâu, và có đến nơi nào khác ngoài Dessau không thì chúng tôi không biết đích xác, vì các pho sử ký mà chúng tôi đã đối chiếu để thuật lại sự việc lại không trùng khớp và mâu thuẫn nhau ở ngay điểm này. Điều duy nhất có thể khẳng định là vào khoảng thời gian này Bá tước Dessau không thể nào đi săn được vì ông đang nằm ốm liệt giường tại nhà người bác Heinrich ở Braunschweig. Còn Công nương Heloise, cùng một Bá tước Königstein nào đó mà cô ta bảo là anh em họ, vào tối hôm sau đã đến tư dinh của đức lang quân, quan nội thị Kunz, ở Berlin.
Trong lúc đó, theo lệnh của Đức Tuyển hầu Brandenburg, người lái ngựa đã được đọc bản án tử hình, được tháo hết xiềng xích, và những tài sản cá nhân của Kohlhaas bị tước đoạt ở Dresden giờ đã được hoàn trả cho ông. Và toà án đã cử các trạng sư đến gặp để hỏi ông muốn thu xếp ra sao với tài sản của mình sau khi chết nên Kohlhaas, với sự giúp đỡ của một viên công chứng, đã lập một di chúc để lại mọi thứ cho các con và chọn người bạn láng giềng trung thực ở Kohlhaasenbrück làm người giám hộ. Sau đó thì không có gì sánh được với sự mãn nguyện thanh thản của người lái ngựa trong những ngày cuối cùng; nhờ một biệt đãi của Đức Tuyển hầu Brandenburg, nhà tù giam giữ Kohlhaas được mở toang cửa, và mọi bạn bè của ông trong thành phố này – người lái ngựa có rất nhiều bạn bè – có thể đến thăm ông cả ngày lẫn đêm. Ông lại càng thêm mãn nguyện khi thấy nhà thần học Jakob Freising, một sứ giả của Tiến sĩ Luther, bước vào phòng giam của ông với một lá thư của chính Luther – thư này chắc chắn là rất đáng quan tâm, nhưng than ôi, nó đã bị thất lạc sau đó – và rồi được chính tay vị khách này làm lễ ban thánh thể cho, trước sự chứng kiến của hai trưởng giáo phận Brandenburg.
Trong khi kinh thành Berlin vẫn tiếp tục mong chờ một lệnh ân xá, thì chúng ta lúc này đã tiến đến ngày Thứ Hai đáng sợ sau Chủ nhật lễ Lá, ngày mà người lái ngựa phải đền tội cho việc đòi công lý quá ngông cuồng của mình. Được nhiều lính canh hộ tống, trên tay bế hai đứa con trai (đặc ân mà ông đã yêu cầu rõ ràng trước pháp đình), và được nhà thần học Jakob Freising dẫn đường, Kohlhaas vừa đi qua cổng nhà tù, thì giữa đám đông những người thân quen buồn rầu, đang bắt tay và chào vĩnh biệt, bỗng xuất hiện người quản lý lâu đài của Đức Tuyển hầu. Vẻ mặt phờ phạc, người này đi tới chỗ Kohlhaas và trao cho ông một tờ giấy, bảo rằng do một bà già nhờ chuyển. Kohlhaas ngỡ ngàng nhìn kẻ lạ mặt (ông không quen biết người này) rồi mở tờ giấy ra, dấu khằn sáp niêm phong lá thư lập tức khiến ông nhớ đến bà thầy bói di-gan. Nhưng ai có thể mô tả được nỗi ngạc nhiên của người lái ngựa khi đọc những dòng sau đây:
Kohlhaas, Đức Tuyển hầu Saxony đang ở Berlin; hắn ta đã đi trước đến nơi hành quyết, và nếu muốn mình sẽ nhận ra hắn ta qua một chiếc mũ gắn lông chim hai màu xanh và trắng. Tôi không cần phải nói cho mình biết mục đích của việc hắn ta đến đây; hắn ta sẽ đào cái ống chì lên ngay khi mình đã nằm dưới lòng đất lạnh, và mở mảnh giấy bên trong ra xem.
Elisabeth của mình.
Kohlhaas ngơ ngác quay lại nhìn người quản lý lâu đài và hỏi anh ta có quen biết người phụ nữ bí ẩn đã trao cho lá thư này không. Nhưng người lạ ấy chỉ thốt lên “Kohlhaas, bà ta là…” rồi ngập ngừng, người lái ngựa lại bị đoàn người cuốn đi tiếp nên không thể hiểu được kẻ đang run rẩy kia đang nói gì.
Khi đến pháp trường, ông nhìn thấy Đức Tuyển hầu Brandenburg cùng với tùy tùng, trong số đó có Thừa tướng Heinrich von Geusau, đang ngồi trên lưng ngựa giữa một đám đông dân chúng không đếm xuể. Bên phải Đức Tuyển hầu là trạng sư Franz Müller, hội thẩm của Hoàng đế, tay cầm bản án tử hình; bên trái là trạng sư riêng của người lái ngựa, Luật gia Anton Zäuner, tay cầm phán quyết của Toà án Dresden; đứng giữa đám đông dân chúng đứng thành vòng bán nguyệt là một sứ thần với một bọc đựng tư trang cùng hai con ngựa ô mạnh khỏe, lông sáng ngời, đang cào móng xuống đất. Bởi vì thay mặt cho người lái ngựa, Heinrich von Geusau đã thắng vụ kiện ở Toà án Dresden, và không hề nhân nhượng Lãnh chúa Wenzel von Tronka một điểm nào. Thế là mấy con ngựa sau khi được phục hồi danh dự bằng nghi thức vẫy cờ trên đầu, được đưa khỏi lò mổ lâu nay đã chăm sóc chúng, giao cho người của lãnh chúa Tronka bồi bổ sức khỏe, và rồi trước sự hiện diện của một ủy ban được thành lập đặc biệt để xác nhận sự việc, chúng đã được giao cho trạng sư của Kohlhaas ở khu chợ Dresden.
Khi Kohlhaas, hai bên là lính canh, leo lên đồi đi đến trước Đức Tuyển hầu Brandenburg, ngài nói: “Này, Kohlhaas, hôm nay là ngày mà công lý sẽ được thực thi cho ngươi. Hãy xem đây, những gì ta đã đòi được cho ngươi, tất cả những thứ ngươi đã đánh mất tại lâu đài ở Tronkenburg, và số tiền bồi thường mà ta, với tư cách là người cai trị, phải lấy về cho ngươi: ngựa, khăn quàng cổ, những đồng tiền vàng gulden, quần áo, có cả chi phí thuốc men cho gia nhân Herse của người đã chết ở Mühlheim. Người có hài lòng không?”
Đặt hai đứa trẻ đang bế trên tay xuống đất, mắt sáng ngời, Kohlhaas đọc bản phán quyết mà có người đã trao cho ông theo ánh mắt ra hiệu của Thừa tướng. Trong phán quyết đó, ông thấy có một điều khoản là Lãnh chúa Wenzel bị kết án hai năm tù; tràn trề xúc động, ông bèn quỳ gối trước Đức Tuyển hầu, hai tay bắt chéo trước ngực đầy cảm kích. Rồi đứng dậy và đặt một bàn tay lên bụng, Kohlhaas quay sang Thừa tướng, hoan hỉ quả quyết rằng ước nguyện sâu xa nhất trên đời của mình đã được thỏa mãn. Xong ông đi đến chỗ mấy con ngựa, xem xét thật kỹ, vỗ nhẹ vào chiếc cổ mập mạp của chúng, và vui vẻ nói với Thừa tướng khi trở lại: “Hai con ngựa sẽ được giao cho hai con trai của tôi, Heinrich và Leopold!” Trên lưng ngựa, Thừa tướng Heinrich von Geusau, nhìn xuống với ánh mắt ân cần, thay mặt cho Đức Tuyển hầu Brandenburg hứa với Kohlhaas rằng ước nguyện cuối cùng của ông sẽ là sẽ điều thiêng liêng phải được thực hiện, và thúc giục ông phân chia những món tài sản khác trong bọc theo cách nào thấy thích hợp nhất. Nghe thế, Kohlhaas bèn gọi bà mẹ già của Herse ra, ông đã nhìn thấy bà trong đám đông ở quảng trường, và trao bọc đồ cho bà, ông nói: “Bà mẹ ơi, cái này là của mẹ!” và cho bà thêm số tiền mà ông đã được bồi thường thiệt hại ngoài số tiền bồi thường cho Herse trong bọc, như một món quà cho bà lo liệu tuổi già.
Sau đó Đức Tuyển hầu cao giọng dõng dạc: “Này, Kohlhaas, người lái ngựa, người đã được mãn nguyện rồi thì hãy sẵn sàng để làm cho Hoàng đế, qua trạng sư đại diện của ngài ở đây, được mãn nguyện tương tự, bằng cách đền tội phá hoại hòa bình của ngươi.” Kohlhaas lột mũ ném xuống đất, nói rằng ông đã sẵn sàng! Ông bế từng đứa con lên, ôm chặt trong vòng tay, rồi lần lượt giao chúng cho người láng giềng ở Kohlhaasenbrück, và trong lúc người này thầm nhỏ lệ đưa lũ trẻ ra ra khỏi pháp trường, Kohlhaas bước lên đoạn đầu đài.
Ông tháo khăn quàng cổ và mở phanh ngực áo ra; liếc nhìn vào đám đông bây giờ đã kéo sát lại rất gần, ông nhìn ra kẻ quen thuộc đội chiếc cắm lông chim hai màu xanh và trắng đang nấp sau thân hình của hai hiệp sĩ. Đột ngột sải bước khiến lính gác giật mình, Kohlhaas tiến đến gần kẻ đó; ông giật chiếc hộp đeo trên ngực mình, lấy mảnh giấy ra, phá dấu niêm phong và đọc; và không rời mắt khỏi kẻ đội mũ lông chim xanh trắng, kẻ đang khấp khởi hy vọng, ông cho mảnh giấy đó vào miệng và nuốt. Thấy thế, kẻ đội mũ lông chim xanh trắng lên cơn co giật rồi ngã lăn xuống đất bất tỉnh. Trong lúc những tên thuộc hạ run rẩy cúi xuống bế chủ nhân lên, Kohlhaas quay trở lại đoạn đầu đài, rơi đầu dưới lưỡi rìu của đao phủ thủ.
Vậy là kết thúc câu chuyện về Kohlhaas. Trong sự thương tiếc của hầu hết mọi người, xác của ông được đặt vào một quan tài và được đưa đi mai táng với đủ nghi lễ tôn nghiêm ở một nghĩa trang ngoại thành, trong lúc đó Đức Tuyển hầu Brandenburg cho gọi hai con trai của người quá cố đến, phong tước hiệp sĩ cho chúng ngay tức khắc và bảo với Thừa tướng của mình rằng ngài muốn chúng được nuôi dạy trong trường đào tạo tiểu đồng của ngài. Còn vị tuyển hầu của Saxony, bị dày vò cả thể xác lẫn linh hồn, đã trở về Dresden, nơi những diễn tiến về sau quý vị có thể đọc ở những sách khác. Ở Mecklenburg cho đến tận thế kỷ trước vẫn còn một số hậu duệ cường tráng và xinh đẹp của Michael Kohlhaas.
Đăng Thư dịch
(Nguyên tác tiếng Đức Michael Kohlhaas. Dịch theo bản tiếng Anh Michael Kohlhaas của Michael Hofmann, New Directions Paperbook 2020. Có tham khảo các bản tiếng Anh của John Oxenford (1844), Frances H. King (1914) và Martin Greenberg (1960).)
[1] Bá tước Kallheim này là đại thần của công quốc Brandenburg. Ở phần sau, ta sẽ gặp một Bá tước Kallheim khác, lại là đại thần của công quốc Saxony. [ND]
Người góp chữ
Đăng Thư
Đăng Thư là một bút danh dịch thuật của Trần Đức Tài, sống ở Đà Lạt, có dịch phẩm đầu tay xuất bản từ 1988 và vẫn tiếp tục dịch lai rai.
Leave a Reply